Monday, August 21, 2006

Biển Sóng

Cuối cùng cô đến nơi. Hôm qua anh hỏi "Biển nào, em" "Chỗ cũ. Nếu còn trống" (Cô lại manh nha hy vọng) "Nhớ đem thuốc chống nắng. Da mặt em mỏng, dễ bị nám." Chưa chi cái nắng hầm hập và con đường xuyên bang hút mắt làm cô ngại ngần. Cô chờ nghe một lời hẹn, nhưng sau đó anh lặng thinh, (Hình như anh đang có điều suy nghĩ) Nếu anh bảo "Đừng đi nữa" chắc cô đã từ bỏ ý định bốc đồng của mình.

Nhưng trong thâm tâm, cô hy vọng anh sẽ tới.

Anh thường không nói trước ý định của mình. Và có thể xuất hiện trước mắt cô, thoải mái, vui vẻ như bao lần tìm nhau bất ngờ mà rất lười cả một cú phôn gọi. Chừng đó năm, cô quen thuộc tính nết trầm lặng nơi anh. Ít nói ngay cả những điều đôi khi cần phải bày tỏ. Nghĩ cho cùng, mỗi người đều có những cá tính riêng có thể bổ khuyết lẫn nhau. Đôi khi lại trở thành những điểm đáng yêu và tự cho rằng nó rất đặc biệt không người nào khác có thể.

Cô lấy phòng. Còn sớm và tần ngần chẳng biết có nên gọi cho anh hay không.

Chỗ cũ. Là nơi chốn mà mỗi năm, không nhất định thời gian họ vẫn gặp nhau. Một giao ước ngầm, một chỗ ẩn trốn những bộn bề. Thường, khi mới đến, anh sẽ kéo chiếc rèm cửa phía kia, đón cho bằng hết nắng gió biển rực rỡ. Anh huýt sáo một điệu quen thuộc trong khi cô sửa soạn bữa ăn trưa, hoặc tối. Cả hai cùng thích không khí của một bữa cơm bình thường trong gia đình bình thường. "Rau cá mắm gì gì cũng được. Một lát bánh, một chút rau.. từ tay em, dở cũng thành ngon.." Rồi dụi đầu thầm thì qua vai cô "Buồn cười, phải không em. Khi người ta có quá ít thời gian để gặp nhau, đố em, người ta sẽ làm gì , là đại khái như anh và em bây giờ." "Em không biết.." " Khỉ ơi.. .." " Thiệt là em không biết." Cô tư lự " Không phải em đã từng ao ước được săn sóc, nấu cơm cho anh ăn sao. Em thích làm điều đó hơn những việc khác. Mình còn nhiều thời gian mà"

Sáng nay, cô ghé chợ, bỏ lên xe đủ thứ lỉnh kỉnh.. Bánh mì, thịt nguội, vài hộp nấm, măng , cà chua và chút thịt ướp sẵn. Cô ngần ngừ trước dãy rượu, không biết nên chọn loại nào mà cả hai cùng có thể. Hennessy thì quá nặng với cô, còn Chambord lại hơi ngọt so với đàn ông. Cô không nhớ nổi tên loại rượu anh ưa thích dù lắm lần hỏi và nhiều lần quên.

Ngoài kia, biển không xa lắm. Tấm thảm nắng khồng lồ dàn phủ trên mặt biển, lấp lánh nghìn tia sáng bạc. Đầu dốc, có thể nhìn rất rõ từng đợt sóng đẩy đùa theo gió. Gió mát rượi mang hơi hướng chút muối mặn, chút rêu ướp nồng thêm bờ cát ẩm.

Gần hơn. Gần hơn. Bãi biển dưới kia sóng trải rầm rì những âm hưởng êm dịu. Rồi đều đặn , từ đáy sâu thăm thẳm , bài ca bất tận dội ngược lên , cuộn tung xoáy trên đầu sóng những bọt nước trắng xóa rồi tan loãng trong nắng gió, lao xao đổ bờ.

Bao giờ ra biển, cảm giác nhỏ bé trước không gian bát ngát kia luôn xô ập trong cô. Cô hít một hơi dài. Tham lam một hơi nữa rồi nín thở, thả từ từ .... Chung quanh , gió biển ùa lồng lộng đùa giỡn trên những đụn cát, xô đẩy nhau cùng lăn mệt nhoài xuống chân dốc, quanh những gốc thông già lưa thưa chùm lá.

Nắng đan xiên trong gió dệt tỉ mỉ muôn sợi tơ ngũ sắc. Từng sợi. Từng sợi chiếu lấp lánh trên cao rồi chui trốn vội vàng dưới lớp doi cát mịn. Và sóng. Sóng lặng lẽ mang những sợi mây ngũ sắc dội dập dềnh trên vùng nước, thứ ánh sáng bàng bạc pha mầu xám nhạt. Vào gần bờ, ánh sáng đục hơn, sẫm hơn, trộn lẫn với thảm cát mịn, bọt tan theo sóng, rồi biến nhanh vào lòng biển. Biển xanh,. Xanh rực rỡ. Tuồng như ai đã ném hết vào đó, những tảng mực mầu xanh da trời và mầu xanh mãi miết dạt hoài đến vô tận.

Quanh quẩn dưới chân cô, một vỏ ốc lẻ bạn ngồ ngộ.

Mầm vôi gai nhọn nhú trên khoảng vỏ cong cong làm cô nhớ tới anh. Nhớ những điều cô đã từng ao ước "Em muốn ẩn trốn trong tình yêu anh. Tình yêu như lớp vỏ xà cừ rực rỡ từng che chở em suốt cả bốn mùa.." Hình như vậy. Cô không nhớ chính xác những điều đã viết, bởi khi nỗi nhớ theo con chữ tuôn chảy, tràn ứ, ai có thể bắt kịp. Cô nghĩ đến anh và cuộc tình mà họ đã chăm chỉ (hay hết sức cố gắng) dệt từ ngày nầy sang tháng nọ, đôi khi rối tung, đôi khi khựng mối nhưng tựu chung họ vẫn làm lại từ đầu theo giao ước mà cả hai đều tự hỏi, chẳng biết bao giờ mảng tơ kia đứt đoạn, và liệu có thể đi trở lại cái thuở mà như ông thi sĩ nào đó đã viết "Hãy làm như chưa biết nhau. Để khi gặp lại là khi bắt đầu."

Cuối cùng bàn chân cô chạm biển.

Sóng nương thân thể cô nhẹ hẫng . Sóng dồn hồi ngập ngụa. Cô nhốt biển trong đôi mắt nhắm. Lúc nầy, thực sự cô muốn quên mọi thứ, quên hết thẩy ngày tháng khi rơi vào vòng tình yêu lẩn quẩn, từ anh. Em rơi vào đời anh tình yêu em khôn lớn trong dịu dàng. Không dịu dàng chút nào, tình yêu quá sức muộn mằn. Cô chờ đợi. Anh chờ đợi. Có những ràng buộc không thể rủ áo một sớm một chiều. Và cô, không hề muốn gây thêm khó xử trong hoàn cảnh mà từ đầu, cô đã chịu nhận phần thua thiệt về mình. Nói là vậy nhưng tự lòng sao tránh khỏi nỗi buồn, nỗi cô đơn mà anh chỉ có thể chia xẻ cho cô trong chừng mực nào đó. Cuộc tình nằm trong dấu phẩy. Dấu phẩy...Nhưng thà như thế, như thế thôi. Tôi sợ quá dấu chấm hết. Dấu tận cùng.

Cô huơ tay, đạp chân rướn một đường dài về phía trước và ngụp đầu nín thở, ngụp lần nữa...

Biển , có thể xua hết những muộn phiền trong cuộc tình vụng dại của tôi không hay khi đứng lên, rủ sạch nước, bỏ lại sau lưng tiếng sóng cùng mảng mầu xanh vô tận kia tôi vẫn hiện nguyên hình là tôi cũ? Vẫn là tôi chết dần mòn như dã tràng xưa kia, hoài công đổ cát từ ngày nầy qua tháng nọ để tìm kiếm viên ngọc quí cho riêng mình ? Và rồi, suốt đời chúng ta như những ngọn sóng kia, có tấp chút rong rêu cũng dạt ngoài biển lớn.

Cô cảm thấy lạnh. Cái lạnh không từ biển, không từ gió mà nó trở đột ngột như khi cô rơi vào trạng thái mơ màng, không biết mình đang ở đâu, đang làm gì. Nó rối nùi như thể cô không biết nắm ở đầu mốc nào để kiểm soát hành động của mình. Cô trở vào bờ, tự hỏi không biết tiêu pha làm sao cho hết thời gian chờ đợi người tình.

Men đường dốc, cô vấp phải một người đàn ông ngược chiều. Cái va chạm khá mạnh , cô nghĩ là mình sẽ ngã nếu không có vòng tay sau lưng. Giọng Bắc hốt hoảng:
"Cô có sao không ?"
"Không gì.."

Cô nhìn quanh, không nhớ khu nhà nghỉ nằm ở chỗ nào. Chắc trên cao , chỗ đám thông già kết võng hay bên kia, nơi mấp mô chồi sụt những đụn cát nóng.

"Nhà nghỉ, hướng kia." - Vẫn giọng người đàn ông - Cô nhìn theo ngón tay chỉ, lờ mờ nhớ lại đoạn đường vừa đi. A, mình chưa già mà sắp lẫn rồi đây. Quên những cái đáng ra phải nhớ và nhớ những điều đáng phải quên. Anh vẫn thường nói như vậy. Cô lách khỏi người đàn ông, cầm khăn áo ngược lên bờ.

Hình như người đàn ông vẫn ở phía sau.. Cô nghe tiếng chân dẫm đều xào xạc như ai đang xúc từng mớ cát lược qua lớp rổ thưa.

"Cô đi biển một mình?"
"Chồng tôi sắp tới"

Cô nghĩ đến anh. Giọt biển mặn rớt trên môi. Chồng tôi. Danh từ xa lạ làm sao. Hình như từ ngữ đáng yêu đó không có mặt trong hành trình tự điển của cô. Có lẽ chỉ dành cho những người may mắn. Hóa ra trong cuộc tình nầy, trước sau tôi là người bất hạnh. Và tôi, đang tự đánh mất chính mình, từ lúc ấy?

"Ông rảnh lắm hay sao?"
"Lúc nầy thì rảnh."

Cô hơi rùn vai. Kệ ông. Mặc tiếng chân sau lưng, cô bước xoải dài về phía trước. Dưới kia, sóng biển vỗ đều vào ghềnh đá những âm thanh trầm đục. Hàng thông xanh theo gió đuổi tung những đợt cát trắng bỏng. Bên đường, một nhóm người Mỹ đang ném bóng. Quả bóng lăn mạnh dưới chân cô, người đàn ông nhanh nhẹn đưa chân chặn đứng. Bây giờ cô mới nhìn rõ.Trông ông ta vẫn còn trẻ trung , vùng bụng lấm tấm cát không ngấn chút mỡ thừa . Anh cũng vậy. Chắc nịch và mạnh mẽ như thần biển. Nhiều lần anh nhấc bổng xoay tròn cô trong cánh tay, nhận xét " Em nhẹ hều, nhỏ ơi. Nhẹ như vầy làm sao có thể giữ lại đời cho anh đây."

Mắt cô bỗng cộm cay.



Trở về khu nhà nghỉ cho buổi chiều, qua khoảng hành lang hẹp, cô thấy người đàn ông đứng đó, nửa khuôn mặt lấp nghiêng trong ráng chiều. Khó?thể đoán tuổi ông ta. Có lẽ già hơn hoặc trẻ hơn nhưng nét xếp gấp trên khuôn mặt làm cô chậm bước. Vẻ khắc khổ đáng tin cậy. Viền mắt gánh thời gian, như cố hết sức chở thêm một chút gì gần như sắp đuối.

"Chồng cô chưa tới sao?"
"Chưa. Còn ông, ông đi với ai?"
"Với bạn, nhưng hắn nhảy vào Casino rồi."
"Ông không vào đó sao?"
"Đó không phải là nơi tôi tìm kiếm."

Cô cười bâng quơ. Có ai trong cuộc đời nầy tự hào rằng mình biết rõ nơi mình sẽ tìm kiếm, hoặc biết mười mươi mình muốn tìm gì.. Trong ngăn tối của đời sống, mỗi người là một thế giới riêng tư không ai có thể mang vác cho ai. Người ta sẵn sàng cho đi đau khổ và giữ lại hạnh phúc. Hạnh phúc, có phải đó là hương thơm mà người ta không thể chia xẻ cho kẻ khác nếu không rưới vài giọt trên chính mình?

Chiều chầm chậm. Từ chỗ đứng, cô có thể nhìn thấy phía bên kia, khoảng biển trời xanh sẫm. Viền chân trời đường mây lượn tím biếc. Hải âu khép cánh chao trên sóng nhẹ như vành lá. Chúng về đâu nhỉ, về đâu đám chim biển kia khi bỏ sau lưng muôn trùng sóng. Anh và cô đã nhiều lần ngồi nơi ghềnh đá kia, mu đá mòn theo con nước tựa vành nón úp ngược, từng buổi chiều nhìn hải âu bay trên biển rộng. Những con chim nhỏ xíu, cánh xếp ngập ngừng luôn e ngại cuộc đời, e ngại bẫy giăng từ đâu đó. Bay đi cánh chim biển hiền lành. Chẳng còn tiếng nói nào để giữ đôi chân em. Chẳng còn tiếng nói nào để đón bước em khi mặt trời đậu trên đôi cánh vỗ.." Hình như xưa lắm, có lần hoặc nhiều lần như thế tôi đã bỏ đi (hay là chỉ ngỡ) nhưng cánh chưa bay đã mỏi, chân chưa bước đã vấp và tôi lại chui vào ẩn náu trong cuộc tình không hứa hẹn, không mong mỏi điều gì.. Cuộc tình, cho dẫu đi mãi rồi cũng quẩn quanh như con cá mắc trong đầm cạn, với tay cùng bờ vẫn hoài xa.

"Hình như cô đợi ai? "
"Có đợi nhưng không hẹn. "
"Tôi thì..có hẹn nhưng không đợi . Vậy mình cùng có điểm giống nhau."
"Tôi không nghĩ vậy. "
"Đúng chứ. Giống ở chỗ cả hai cùng cô đơn. Cô đơn như chút tình thoảng trong gió vội. Tôi chợt nhìn ra tôi."
" Có khi nào cô nhìn lại mình, trong ngần ấy năm, ngần ấy tuổi để thấy rằng, người ta hạnh phúc trong sự cô độc hơn ngoài kia đám đông."
"Ông ca tụng sự cô độc hay sao? Sự chịu đựng mỗi người chỉ có giới hạn, trong một thời khắc nào đó.Kéo dài lâu hơn sẽ làm người ta dễ ngã . Và khi ngã rồi không thể gượng đứng lên?"
"Nhưng nó sẽ làm tâm hồn phong phú hơn. Tôi nhìn thấy nhiều điều trong nỗi cô đơn. Bản thân, cuộc sống, sự phấn đấu cả sự trốn chạy."

Cô muốn nói, tôi đã thấy tận cùng nỗi cô đơn , có thể nghe được hơi thở nó trong suốt thời thiếu nữ, trong đợi chờ khi nhìn ngắm hạnh phúc kẻ khác..Mỗi người đều có phần số và khi Thượng đế đặt vào tay người nầy sự bất hạnh thì dù cựa quậy bao nhiêu , cũng đuối dần như con thú mắc bẩy, không cãi được số phận của mình..Trong định mệnh đó, có người cam chịu, như cô, nhưng cũng có người vượt qua hàng rào định kiến, sống theo nhu cầu tình cảm của họ. Đó là?những kẻ can đảm.

"Chắc không. Cái can đảm đó. Lương tâm họ yên ổn sao?"
"Có thể và không thể. Tôi chưa đặt mình trong trường hợp như vậy. Sự lựa chọn nào cũng có cái giá của nó." - Giọng cô bứt rứt. Không biết giờ nầy anh đang ở đâu. Trên đường đến hay trên đường về ? Hình như trong cuộc tình , trạng thái tinh thần của người đàn ông vững hơn, quả quyết hơn. Họ biết điều họ muốn làm và sẽ làm. Chiếc cân tình cảm, đôi khi nếu lệch lạc cũng không khó khăn để điều chỉnh lại vị trí ban đầu. Họ biết tới, dừng lại đúng lúc. Có phải?

"Tôi muốn gọi điện thoại. "
"Nên lắm. Tôi nghĩ câu trả lời đó sẽ làm cô dễ chịu hơn."

Ông ta đưa cho cô chiếc phôn cầm tay, nheo mắt " Có sợ tôi biết số phôn không?"
"Tôi còn định nhờ ông bấm số dùm."

Tiếng reng đầu kia..một, hai, ba..làm cô bối rối. Cô quay lưng tránh că? mắt của người đàn ông.. Trong điện thoại, tiếng đàn bà yêu cầu để message. Lần đầu tiên cô nghe giọng nói của bà ta. Ấm khô cao sắc nhọn, rành rẽ của một người luôn dư thừa hạnh phúc, lạ mặt với nỗi đau . Cô cảm thấy sợ nhưng không hiểu tại sao.

"Không gặp à?"
"Chắc nhầm số."
"Gọi lại thử xem."
"Tôi nghĩ, chắc anh ấy trên đường đến đây."

Cô thở hắt và hai bàn tay chắp lại theo thói quen mỗi khi cần che dấu cảm xúc của mình. Cái thói quen mà anh nói, khi xa thường làm anh nhớ.

Cô ngạc nhiên khi người đàn ông sững nhìn bàn tay mình. Ánh mắt quá sức lạ lùng. Đó là sự trộn nhầu giữa thảnh thốt lẫn đau đớn, giữa trốn chạy lẫn níu kéo. Và có phải, những nếp gấp trên khuôn mặt kia là hậu quả giằng co giữa hai bờ vực?

Từ chân trời, bóng tối như tấm thảm nhung bọc gió di chuyễn chầm chậm trên vòm cây, rắc dịu dàng trên từng thảm cỏ. Trong yên lặng, gió theo sóng rì rào lời biển hát.

"Biển đêm" -Tiếng người đàn ông thoáng nhẹ, và cô nghe đâu đó chữ đêm âm âm gần gụi mà lại mơ hồ xa.

"Tôi đã từng thấy biển đêm."
"Sao?"
"Dữ dội. Kinh hoàng. Tôi đã mất hết từ đó"
"Tôi cũng như ông. Đang mất hết dần từ đó"
"Không, cô khác tôi nhiều lắm. Cô nói mỗi người có một số phận riêng mà, đúng không. Cho dù bao nhiêu năm sau nữa, ngày nào tôi còn trí nhớ, tôi không bao giờ quên được những giờ phút kinh hoàng đó. Con chết trên tay mà không cứu được, vợ mình kia mà bất lực. Tôi là thằng hèn, cô biết không. Tôi vẫn chưởi rủa mình tàn tệ như vậy.."
"Nhưng rồi ông vẫn phải sống, đâu thể làm khác hơn được.."

Phải. Đâu thể làm khác hơn được. Ông quay nhìn cô.

"Mỗi năm một lần tôi về đây, về chỉ để nhìn biển. Một vài ngày nghỉ ngơi coi như mình đứng bên lề cuộc sống tất bật nầy. Tôi đang trốn chạy nhưng lại không biết rõ ràng những điều làm mình phải né tránh nó."
"Sự cô đơn?"
"Sự chịu đựng để chuẩn bị."
"Tôi không hiểu. Ông không tìm thấy bình yên trong cuộc sống gia đình?"
"Có lẽ. Hay trái tim của tôi đã bỏ lại từ biển Đông, từ ngày tôi mất hết vợ con. Nhưng tôi cảm thấy buồn lắm, rất buồn, cô hiểu không, và chỉ khi đến đây, nhìn biển, tưởng tượng ở một góc đại dương nào đó, mảnh linh hồn của vợ con tôi vẫn lẫn khuất tìm gọi, ngoài biển sóng kia, tôi mới có thể lấy lại quân bình cho mình, sẵn sàng đi tiếp những bước dài hơn, dài hơn ở đời sống bên kia. Có phải tôi dở hơi lắm không?"
"Đó là cách nghĩ của ông. Tìm quên hoặc chạy trốn.."
"Có lẽ!"
"Người ta có nhiều cách để tìm quên vì cái mình phải mang quá cực lòng. Nỗi cô đơn, nỗi buồn giống như con đĩa hút máu mình rồi thả vào những tinh lượng độc. Biết, nhưng có người ?không phẩy phủi nó đi. Có lẽ họ muốn nếm thử cái đau gậm mòn từ từ khi nọc độc dọn đường di chuyển. Và, tất cả đều có cái giá của nó." - Cô nói và bâng khuâng nghĩ đến mình. Tôi đang nói về chính tôi, về con đường đã chọn , không biết có đủ sức gánh nỗi cái giá mà mình phải trả. Và đến chừng nào sẽ phải trả, góp hết một lần ở đời sống nầy. Cho xong.

Bóng người đàn ông đổ nghiêng theo vệt đèn đường, kéo dài như thân cây khô khát nắng. Không thấy bóng mình, cô đứng lại. Nó ở đâu, cái bóng ấy? Chui vào lòng đất hay treo trên đầu ngọn cây kia ? Cái bóng tội nghiệp từng theo anh bên lề nỗi đợi, dõi sớm chiều qua khuôn phố nhỏ. Cô nhớ thoang thoáng câu chuyện với người đàn ông. Ông ta nói gì nhỉ. À, cái giá của hạnh phúc, không dễ tìm, không dễ bắt giữ nên, phải một lần nếm cho hết vị ngọt, đắng của nó. Hạnh phúc nào không tả tơi không đắng cay... Và có phải, cô đang trả giá cho chính hạnh phúc từ tay người.



Đêm qua ông ngủ được một giấc dài , lần đầu tiên không nhờ sự trợ giúp của Valium. Viên thuốc ngủ 10mg trở thành một thứ ma túy , một thứ máu trắng mà vắng nó, ông tỉnh táo như ban ngày kéo dài đủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Đầu hôm, quả thật ông có mơ. Những giấc mơ được lặp lại gần như hằng đêm, đôi khi thay đổi một số chi tiết nhưng không đáng kể. Ông thấy mình ngồi trong căn hầm đá xanh, đồ đạc..chỗ nằm, bàn viết thẩy bằng thùng đạn, máy truyền tin ở góc hầm. Thằng bạn cùng đại đội bước vào, cười nói oang oang, hỏi ông chừng nào nó được đi phép, "Nhớ vợ quá!" Hình như nó nói với ông như vậy. Bỗng, đạn nổ rền trời, phá tung nóc hầm, đá từng khối tóe vụn nát. Thằng bạn biến mất trước mắt ông như thể nó chưa từng đứng chỗ đó.Trong giấc mơ , ông thấy mình chụp khẩu đại liên chạy nhào ra khỏi hầm. Đạn bắn lên trời rực đỏ, mà lạ, sao nó giống hệt pháo bông , xác giấy rơi lả tả ngập bệt máu trên nền đất.

Rồi, trong tích tắc, ông thấy mình bị kè trói , bị bắt lại, trại giam đúng chỗ nhốt tù sát biên giới mà lần vợ ông tới thăm, họ ngồi trong lán nhà, sát cạnh nhau . Lán vắng người mà chẳng hiểu tại sao họ ngồi yên ắng lắm, thậm chí ông không vắt được cánh tay qua vai cô nữa, và cô cười dịu dàng vân vê mép áo mà chẳng nói năng gì.

Ông nghe buốt dọc sóng lưng, xương vai ê ẩm đau khi bọn họ đẩy ông chúi nhủi ngay chỗ giường ghép bởi hai tấm ván mỏng, mặt nhẵn thín được bào láng bởi mồ hôi lưng và nước mắt sống. Đầu nằm có sẵn cái túi khâu tay vải bố mà ông để dành gửi về cho thằng con. Trong giấc mơ, ông thấy rõ mình đang khóc, không ngừng đấm ngực thùm thụp, tự hỏi tại sao để bị bắt lại lần nữa. Tại sao trải qua chừng ấy nỗi khổ mà ngu muội vẫn hoàn ngu muội.

Rồi, cũng chừng đó lần , trong giấc mơ, ông thấy vợ ông. Cô nhỏ bé chạy theo ông, tay vác bọc túi thăm nuôi, cái túi chắc bị chuột gặm hay dán nhấm, những nhúm bột rơi vãi trên đường kéo dài vô số vệt bụi trắng như tích xưa, Mỵ Châu để lại dấu hiệu cho Trọng Thủy dẫn quân theo đuổi giết. Cô chạy, dáng xiêu xiêu chực ngã, hai ống quần rộng phất phơ (không biết bộ đồ đó cô may hồi nào.) Cái mầu áo kỳ cục, mầu bã trầu lẫn sắc máu. Trong trí ông nói, em ơi, đừng mặc mầu đó. Già lắm. Thê thiết lắm. Nhưng cô chắc không nghe , vẫn lúp xúp chạy theo ông, vừa chạy vừa khóc, túi vải rớt rồi, mất hết thức ăn rồi, anh ơi. Mấy ngón tay mảnh khảnh chắp lại, như cầu xin, như lời khấn. Ông gào to. Em ơi, đừng xin, đừng khấn, Thượng đế không còn ở trần gian đâu em. Mà lạ, cô mảnh khảnh là thế, ốm o là thế, vậy mà vẫn bương theo, lưng còng xuống như cõng một khối đá không khí nặng lắm, hình như vậy... Và gương mặt đầm đẫm nước mắt.

Khi ông cố ngoảnh lại... Phía sau , bầu trời xanh thẳm , mây cuồn cuộn dồn cục từng khối gòn ép cứng, và ... Đập vào mắt ông, trên biển sóng dập dềnh, là một khối san hô kỳ dị kết bởi vô số những mảng tóc người đen bóng. Tóc dập dềnh rẻ nước. Tóc lênh láng, lều bều. Tóc theo nước ngập tràn, tung tóe.

Chập chờn giấc sáng, vợ ông trở lại.. Cô khô ráo, đẹp đẽ. Cô thanh tân, rực rỡ. Thay chiếc áo bã trầu là mảnh vải trắng mỏng như tơ trời. Ông dám chắc như vậy vì cô đến gần ông, nhẹ nhàng bước chân sương khói. Và vùng tóc, nụ cười mở hết về phía ông... Hai bàn tay chắp trước ngực, cô gọi tên ông. Tiếng nói, như gom hết sóng biển êm gió cát khẽ khàng vào lời ru của nàng tiên cá, khi nàng chưa đổi giọng hát của mình cho bà phù thủy độc ác. Chưa bao giờ ông được nghe những âm thanh lạ lùng như vậy, và chưa chắc ai một lần trong đời có được diễm phúc đó. Khi nàng cúi xuống, ngón tay vẽ trên mũi ông như thói quen, là... Gương mặt cô bạn nhỏ, đêm qua nơi thềm sóng cùng ông ngắm biển đêm.

Ông gọi hai phần ăn sáng. Tưởng tượng chỗ ngồi đầy nắng gió . Và cô bạn nhỏ kia, ông sẽ kể về giấc mơ đêm qua để vui thích khi nhìn đôi mắt của cô sẫm tối nhưng ngập tràn sóng biển. Có quá nhiều điều để nói, và ông sẽ được sống đôi phút dịu dàng trong quá khứ khi cô chắp tay lại, những ngón tay gầy guộc như cầu xin, như lời khấn... Lạ quá, sao thói quen của người nầy lại có thể quá sức giống người kia, như một âm bản không mảy may xê dịch? Cũng mười ngón tay đan chéo, úp qua , ai cũng có thể làm được động tác đơn giản như vậy.. Nhưng đặc biệt khác, ở chỗ dáng vẻ, bờ vai, cả mắt nhìn tội nghiệp như muốn cầu xin điều gì và tuyệt vọng vì biết lời cầu xin của mình, có được là điều không thể.

Trời nắng đẹp. Y hệt bầu trời ngày hôm qua với từng cụm mây xếp đều đặn như miếng thạch trắng nhưng có vẻ trong xanh hơn, mát dịu hơn.

Còn sớm. Ông rời nhà nghỉ, thả bộ một vòng đợi bình minh trên biển.

Vừa xuống hết dốc, bất chợt... ông thấy họ.

Cô nhỏ xíu, đi như chạy trong nắm tay của một chàng trai khá cao lớn. Dù ở xa, ông vẫn hình dung tiếng cười của cô, trong trẻo và ngọt lịm như miếng chanh lạnh ướp đường. Chàng trai nói gì đó và họ cùng đuổi nhau té chạy trên biển cát.

Họ nương theo đầu sóng, theo nhịp gió vỗ gềnh đá và bỏ lại sau lưng, những dấu chân cát nhuộm đầy bóng nắng..

Ông nhìn theo đôi tình nhân trẻ. Lắng nghe tiếng cười của họ. Ông đã có một thời hạnh phúc, một thời leo tận đỉnh niềm vui và rớt tận đáy sâu của nỗi bất hạnh. Thời đó đã qua rồi, mất rồi, và ông đời còn lại đã chết dần theo vợ con, từ lúc ấy...

Ông trở vào khi họ đã khuất xa đầu sóng. Ông nghĩ đến cô, đôi mắt rất buồn và bàn tay, những ngón xanh xao gấp lại như che dấu những ước mơ, những lời cầu xin mà trong đời sống nầy, như ông. Hiếm hoi ân huệ.



Quá trưa, Họ trở về phòng. Cô trong tay anh. Hớn hở, rực rỡ. Cái đuôi ủ dột của nàng tiên cá hôm qua đã tăm tích. Từ anh, thân thể cô như được khoác chiếc áo hạnh phúc kết bởi mầu xanh lai láng của biển sóng, mầu nắng ngọt ngào điểm vô vàn những hạt cát trân châu nhỏ xíu. Tình yêu quả thật kỳ lạ. Có thể thay đổi cả một đời sống của hôm qua, tưởng như xác thân chừng loãng tan đâu đó. Cô nói với anh về người đàn ông đã gặp, về biển đêm mà khi đứng ở tàng cây đốm lá, cô tìm hoài không thấy bóng mình. "Em sợ làm người mất bóng" Anh cười, nụ cười đàn- ông- trẻ- thơ mà cô quá sức nhớ " Em không thấy nó bởi em tìm bóng bằng trái tim. Thử một lần nhìn bằng mắt, em sẽ thấy dễ chịu hơn" " Thì đó."? Cô thở dài - "Có bao giờ em nắm giữ được gì , dù những điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng không phải vì vậy mà anh yêu em hay sao?" "Đúng. Nên anh rất khổ tâm vì không thể mang lại cho em những gì anh mong muốn" "Không thể hay chưa thể?" "Cả hai. Nhỏ ơi. Đừng hỏi khó anh."

Cô vẫn xiết trong tay anh.

Bây giờ, họ đang đứng trước cửa phòng.

"Ông ta đi rồi, anh à" Cô nói và gỡ tấm giấy cài trước cửa.

Họ cùng cúi xuống. Một hàng chữ ngắn ở mặt trước "Đã đặt phần ăn ở lobby cho hai người. Chúc vui." Cô lật ra phía sau. Chữ viết nhỏ và hàng không đều. Có lẽ khi viết, đã nhiều lần ông nhắm lại, đôi mắt chở thời gian gần như sắp đuối. Có lẽ..

"Cô nhỏ. Hạnh phúc thường không đến hai lần trong đời người. Hãy giữ nó, nếu có thể, giữ -rất-riêng- dù phải trả giá như thế nào. Đâu ai biết được, điều gì sẽ đến khi bước ra khỏi cánh cửa đời sống? Còn tôi, tôi hiểu rõ điều mình đang tìm kiếm."

"Nó ở kia. Ngoài biển sóng."

Nhật Nguyễn

Nguyên Xuân

- Mình cố gắng nhịn đến sáng mai được không ?

Ông đeo kính hỏi, mắt thất thần nhìn gương mặt méo mó đẫm mồ hôi của vợ. Bà đỡ gắt :

- Đau đẻ còn chờ sáng giăng. Đàn ông đàn ang mò vào đây làm gì ?

Ông đeo kính cum cúp đi. Đứng ngoài hành lang, chốc chốc thót người nghe tiếng rên la từ trong phòng đẻ vọng ra. Khi tia nắng đầu ngày chọc xiên qua lớp mây đông thì có tiếng trẻ con oe lên. Ông đeo kính nhảy chồm sung sướng:

- Nhịn được rồi ! Ra rồi !

Con bé được đặt tên là Nguyên Xuân. Bố mẹ đã đồng loã dành cho nó một ngày sinh đặc biệt : mùng một tháng một. Phía trước nó là một năm mới tinh khôi với nguyên vẹn mùa xuân.

Ở nhà thì Nguyên Xuân được gọi là Nhịn, có lẽ để vinh danh thành tích nhịn đẻ ba mươi sáu tiếng của mẹ. Nhịn được dạy dỗ rằng ở đời, có nhịn thì nên. Sau này Nhịn được biết thêm rằng nhịn nhà mình là gia giáo thâm thuý lắm chứ không phải nhịn bừa bãi vô tổ chức. Như mấy ông bà nhà quê dở buổi làm đồng nhịn dành cứt về nhà bón cây, đấy là thói nhịn tiểu nông. Hay như cô Dự hàng xóm, chồng say đánh ngày ba bận, nuốt nước mắt cắm mặt nuôi con, ấy là thứ nhịn đàn bà ngu muội. Nhịn nhà mình đây có chữ thờ đàng hoàng, nét mực Tàu đen xì, nền giấy ố vàng, đồ cổ xịn. Nghe bảo cụ tổ làm quan to, cuối đời ngẫm nghĩ, viết ra độc chữ ấy truyền lại cho con cháu. Cả họ thờ chữ ấy mấy đời, đến đời bố thì cuộn lại, sợ tàn tích phong kiến. Mấy năm sau này, bố lục đục lấy ra, treo lên. Đứng giữa cửa ngắm nghía, bố lớn giọng bảo chúng nó có sắm sa lông, cúp kiếc, giàn karaôkê ôkiếc gì gì thì được chứ đừng hòng sắm nổi truyền thống. Một chữ này của nhà mình, đố thằng trọc phú nào mua nổi. Nhịn hỏi đấy là chữ gì hả bố. Bố cũng không rõ lắm, chắc là chữ "Nguyễn", họ nhà mình.

- Tao học chữ Tây chứ có học chữ Nho đâu. Để hỏi lại xem.

Bố đi hỏi khắp nơi, hoá ra đấy là chữ "Nhẫn ". Bộ "đao" đứng trên bộ "tâm", "nhẫn" ý như cầm dao cắt gọt con tim nông nổi của mình, nhẫn nhục nuôi chí lớn. Bố vỗ đùi đánh đét, công nhận các cụ thâm thật. Chữ này phải lồng khung kính mà treo mới xứng. Nhưng hỏi giá mấy nơi làm khung đắt quá, mẹ cằn nhằn phí tiền, bố và chữ "nhẫn" đành chờ. Buổi trưa, Nhịn nằm ngọ nguậy trên giường, tay bị bố giữ chặt. Giá được đi chơi thì thích hơn nhưng bố bắt Nhịn phải ngủ trưa để lấy sức chiều học tiếp. Nhịn he hé mắt đếm những vệt cứt ruồi bám trên tờ chữ gia bảo, nhiều quá, lần nào cũng đếm dở dang là ngủ mất.

Gương mặt bố mẹ rạng rỡ tự hào khi đón Nguyên Xuân vào nhà mới. Từ lúc ở nước ngoài, Xuân đã được xem ảnh, nhưng thực tế vẫn làm choáng váng. Cái nhà ba tầng đồ sộ, mái củ tỏi Nghìn lẻ một đêm, cột chống Hi lạp, phòng ốc kiểu Tây nhưng trang trí nội thất Á Đông. Bàn ghế, tủ chè nhất loạt thửa từ Đồng Kỵ, gỗ gụ đen khảm trai óng ánh, tưng bừng những chim những hoa.

- Con thấy thế nào ? Bố mẹ đồng thanh hỏi.

- Đẹp lắm ạ.

Xuân đáp, đưa mắt khắp phòng cố tìm một vật dụng quen thuộc.

- Bức thư pháp "Nhẫn" đâu hả bố ?

- Treo cái này hay hơn chứ ! Bố chỉ tay vào bức thêu to bằng cái mâm treo cạnh tủ thờ, chữ "Phúc" vàng trên nền kim tuyến đỏ lấp lánh.

- Chữ này lộn ngược. Xuân nhận xét.

Bố đắc ý :

- Ăn nhau ở cái lộn ngược ấy đấy ! Phúc lộn ngược là "Phúc đảo", đồng âm với "Phúc đáo", là "phúc đến", gọi phúc lộc đến nhà mình. Từ hôm treo nó lên, bố mẹ bán nhà cũ được giá, mua đất cát cũng gặp thời nên mới lên được cơ ngơi này đấy con ạ.

Ngày thứ hai, Xuân chắp tay sau lưng, đứng xa ngắm nghía cái nhà, càng ngắm càng tự hỏi sao lại củ tỏi, sao lại vôi hồng, sao lại cửa sổ xanh lá cây. Mẹ giải thích :

- Bố mẹ già rồi, mua nhà xây sẵn cho tiện. Mái củ tỏi hết mốt nên được giảm giá. Củ tỏi trên mái, mình trong nhà, có phải nhìn đâu mà sợ. Kệ thiên hạ.

Ngày thứ ba, Xuân đi vòng quanh nhà, cố không bình luận về tranh thảm Ba tư, chùm đèn thủy tinh mạ vàng sáng choé, nhưng không nhịn được lại hỏi :

- Cái tượng kia ai tặng nhà mình ?

Bức tượng nàng tiên cá đứng ưỡn vú dưới chữ Phúc lộn ngược. Bố tự hào :

-Bố mua từ tận Đà Nẵng đấy. Đá trắng nguyên khối quý lắm, ai cũng phải khen.

Nàng tiên cá tự biết mình trắng đẹp, ngoảnh mông vào ông Lộc bụng phệ tay nâng thoi vàng miệng cười hể hả. Cạnh ông này là ông Lã Vọng cù rù ngồi câu cá trên hòn non bộ xi măng, một anh nông phu nằm tênh hênh bên cây cầu, con trâu, mái chùa... tất cả to bằng nhau, cùng nép bóng cây si bonsai. Nhìn mãi thấy vui mắt.

Sang đến ngày thứ tư, Xuân đã tập được thói quen đi vệ sinh xong không giật nước. Bệ xí Thái Lan trắng tinh hiện đại nhưng giật nước ào ào tốn chết. Mẹ cẩn thận đặt cái chậu nhựa đầy nước và cái gáo bên cạnh, xong việc chỉ cần với tay múc đúng hai gáo dội là vừa đủ. Xuân cũng học cách vào nhà vệ sinh không bật đèn khi trời còn sáng và trong bóng tối nhờ nhờ tránh bước thẳng vào chậu nước dội, chậu rửa mặt, chậu ngâm quần áo bày la liệt như bát quái trận đồ trên sàn. Nhà có máy giặt nhưng mẹ thích giặt tay. Giặt máy tuy không phải động chân tay nhưng ngồi rỗi mà nghe nước chảy rồ rồ, máy quay rung tường nhà, tưởng tượng ra con quái vật phàm phu mỗi phút ngốn bao nhiêu là điện, là nước, là xà phòng, gan vàng dạ sắt nào chịu cho thấu. Nhưng thiếu nó thì không được. Ngày ngày, mẹ âu yếm lau bụi trên máy hút bụi, máy giặt, máy điều hoà, lò vi sóng, đầu video... Rồi mẹ bồi hồi ôn lại ngày xưa, nhà mình chỉ có độc cái tủ với cái phản. Căn phòng mười một mét vuông, sinh hoạt tất tật bên trong, kéo riđô để bố dạy học bên ngoài. Tối tối, hai mẹ con nằm trong giường, cấm nói chuyện sợ ảnh hưởng đến buổi dạy của bố. Con vân vê núm vú mẹ, món đồ chơi duy nhất. Khi ấy, mẹ ôm con vào lòng, ao ước có cái máy khâu để máy hàng thuê phụ bố đỡ vất vả. Mơ có một chỗ nấu ăn, rửa bát trời mưa không bị ướt đầu. Có tiền thì mình sắm cái chạn để chống chuột, mua cho hai bố con chiếc bàn học nhỏ kê ở góc kia. Rồi cả tivi, tủ lạnh. Căn phòng mười một mét vuông chật ních những đồ đạc mơ ước. Đến hôm mua được tủ lạnh, mẹ vui mất ngủ, nghĩ nhà mình thế là có máu mặt trong xóm, chẳng thiếu thứ gì. Mùa hè, cả xóm phải sang xin đá, mẹ xởi lởi đem cho, thật nở mày nở mặt... Mẹ kể, vừa kể vừa cười mình ngày xưa sao khổ thế, khổ mà không biết là mình đang khổ. Chiều muộn, bóng tối lan trùm căn phòng, Xuân với tay định bật đèn nhưng mẹ ngăn lại. Ngồi không có làm gì đâu mà bật đèn cho tốn điện. Xuân bùi ngùi nhìn mẹ ngồi trong bóng tối, kể mãi chuyện đổi đời. Cái xóm ngày xưa, theo lời mẹ, bây giờ nhà nào cũng triệu phú tỉ phú. Bố mẹ bán căn phòng nhỏ ở trung tâm, mua nhà ba tầng ven đô tưởng đã to nhưng thấm vào đâu so với nhà mặt tiền của các chú các bác. Động đến là trăm cây, nghìn cây vàng. Bà Sâm từ độ bán nhà đâm ra lên huyết áp vì lo trấn lột. Nhà mới của bà tường cao kín mít rắc mảnh chai nhưng vẫn phải nuôi thêm chó dữ. Hai con bécgiê lồng lộn đuổi nhau suốt ngày trong mảnh sân kín, mở cửa ra là nước đái chó xông lên người chết cũng phải tỉnh dậy. Bà Sâm lam lũ với hai con chó chả khác nào khi xưa phải tăng gia lợn trong nhà. Chú Thịnh cũng là tỉ phú. Chú mua hơn nghìn mét đất, xây tường bao, kẻ biển "Biệt thự Triệu Bông Hồng". Chú Thịnh nguyên văn sĩ bỏ nghề về phụ vợ bán cháo lòng, còn tí máu văn chương trút cả vào cái biển, tô vẽ hoa hồng rực rỡ. Cũng phải tâm hồn lãng mạn lắm mới tưởng tượng ra được Triệu Bông Hồng giữa khu đất chó ỉa bên cống thối sông Tô Lịch quanh năm nghẽn đặc rác rưởi, xác mèo, chuột chết trương phềnh.

Thế là cả xóm lên đời hết. Chữ "Nhẫn" qua lần chuyển nhà thất lạc vào đâu chẳng biết, châm ngôn mới của bố nghe oanh liệt hơn : "Cứ đạn bắn xối xả là xong". Túi bố luôn có "đạn", là mấy tờ đô xanh xanh không phải để tiêu mà để làm "chúng nó" sợ. Bố uống bia để bụng phát triển tự nhiên. Bụng phệ cộng với đô la trong ví là tướng giám đốc, đi đâu cũng được vị nể khác thường. Mẹ không còn tiêu những buổi tối vào mơ ước nữa. Cái gì mua được bằng tiền thì đã mua rồi, mẹ đâm buồn. Thú vui của mẹ bây giờ là đi gọi hồn. Nói chuyện với người sống chán rồi, bây giờ mẹ chuyển sang tín nhiệm ma.

Bà Sâm giới thiệu cho mẹ một cô đồng rất giỏi. Bà là khách thường xuyên của cô đồng, hai tuần đến gọi hồn một lần, khi đi háo hức, khi về bâng khuâng. Mẹ úp mở bà ấy đang có bồ đấy. Bố bực dọc :

- Nhảm nhí ! Sắp xuống lỗ rồi còn bồ bịch gì. Đến tai chồng bà ấy thêm rách việc ra.

Mẹ hứ một tiếng :

- Tôi mắt thấy tai nghe nhé, không thèm đặt điều ! Ông có ở đấy đâu mà biết. Không tin thì tuần sau đi với tôi. Mà không, ông đi thì "họ" lại ngượng, vía dữ như hùm ấy. Thôi để con Xuân đi với tôi. Với lại cô đồng này cũng hay lắm, xem một lần cho biết.

Bà Sâm là chị họ bố, ngót nghét bảy chục tuổi. Bà thuộc loại phụ nữ cổ, chỉ chăm chăm chúi chúi vào chồng con, suốt ngày ru rú trong nhà. Con cái lớn dựng vợ gả chồng ra ở riêng hết, bà sống với ông chồng, tiền bán cái nhà cũ thừa ra, ăn đến chết cũng không hết. Chồng bà còn khoẻ, nhập hội "Ham sống sợ chết", các cụ già rủng rỉnh, ăn chơi dối già, đi vắng suốt. Còn lại mình bà với hai con chó giữ nhà và màn hình tivi mở từ sáng đến khuya. Bà ngồi, cằm phị xuống tận ngực, chương trình gì cũng mở tới cùng nhưng không ai dám chắc bà đang thức hay ngủ bởi cặp mắt sụp mí, những nếp nhăn trên mặt không động đậy. Thỉnh thoảng như sực tỉnh, bà đấm thùm thụp vào cái chân bị thấp khớp, rên "Ôi giời" bình luận cho tất cả các chương trình từ hoạt hình, phim hài, bạo lực đến tin thời sự động đất, tăng năng suất lúa, cúp bóng đá, thăm viếng ngoại giao. Bà Sâm bây giờ cũng xoay ra bồ bịch thì khiếp thật, mà lại có ông già nào lãng mạn đến mức vắt ra được giọt tình ở bà lão bảy mươi như thế.

Nhưng mà có khi mẹ chẳng nói ngoa... Buổi sáng hôm sang rủ bà Sâm đi gọi hồn, Xuân kinh ngạc thấy một bà Sâm hoàn toàn khác. Tivi vẫn bật nhưng bà không xem mà lăng xăng đi lại. Đồ lễ đó chuẩn bị tươm tất. Gà quay, xôi gấc, hoa quả thượng hạng. Nhất là một bó hồng đỏ lộng lẫy, cành vừa mập vừa dài, mười bông như một, cánh nhung lóng lánh nước đọng, đẹp không chê vào đâu được. Mẹ ghé tai Xuân thì thào: "Hồng tặng bồ đấy. Bà này thế mà lãng mạn lắm !" Bà Sâm hôm nay diện quần tây, áo nhung đen, tóc búi cài trâm, nom nhẹ nhõm, trẻ trung ra cả chục tuổi. Xuân nghi hoặc để ý bà đang trang điểm. Nhìn các bà già son phấn bao giờ cũng cảm động. Giống như hàng rau xót xa vảy đẫm nước vào mớ rau héo chợ chiều, biết chắc là vốn liếng sắp đi tong rồi nhưng vẫn cứ ngồi cố đến khi tàn bóng. Cái cách bà Sâm hôm nay chải chuốt không giống thế. Nó nắn nót, âu yếm trên từng nếp nhăn. Chưa hết, thay vì bôi dầu Nhị Thiên Đường như thường lệ, bà lại xịt tí nước hoa. Bảy chục tuổi, cả đời hết nuôi lợn đến nuôi chó mà bây giờ bỗng dưng thích nước hoa thì nhất định là có vấn đề.

Nhà cô đồng nằm sâu trong ngõ, trên gác. Cửa chính treo mành mành nhưng cửa sổ mở rộng nên thoáng. Chính giữa phòng là điện thờ, khói hương nghi ngút. Ánh sáng nhiều nên không khí không có vẻ âm u, huyền bí như Xuân tưởng. Bà Sâm nhanh nhẹn bày đồ lễ. Cô đồng dọn ra đĩa gạo, đĩa muối, chén rượu, thuốc lá, bình trà. Mẹ rút nén hương thắp, cắm vào cốc gạo để trước mặt cô đồng. Người nào việc nấy thành thạo, nhịp nhàng. Xong xuôi, ba người quỳ một hàng sau lưng cô đồng. Cô này xuýt xoa khấn vái, gieo âm dương rồi chắp tay, đầu gục xuống. Im phăng phắc. Xuân nhớ ông nội. Hôm ra thăm mộ ông, Xuân khóc. Khóc với người chết dễ hơn với người sống. Không cần giải thích, không cần kể lể, chỉ nước mắt mặn chát rơi xuống, thấm vào đất mộ. Thần giao cách cảm. Ông linh thiêng chắc hiểu vì sao Xuân bỗng dưng bỏ việc, ngàn dặm trở về... Cô đồng chợt rùng mình như có ai đẩy. Cô ngáp, mặt vếch lên bốn nhăm độ, cặp mắt khép hờ toàn lòng trắng liếc xéo sang bên, dài dại :

- Trung. Trung đây.

Mẹ và bà Sâm nhìn nhau. Đồng thanh thưa :

- Dạ, không quen hồn nào tên là Trung cả.

- Trung họ Vũ. Tìm cô Bé.

- Dạ, chắc hồn nhầm người.

- Thôi thế hồn đi vậy.

Cô đồng lại ngáp. Rùng mình. Hồn đi. Nửa tiếng trôi qua, có hồn ông Lục tìm bà Tài, hồn cụ Tô tìm Uyên, hồn cô Vị, hồn bà cả Tẹo tạt qua chơi, không ai nhận lại đi. Mỗi lần hồn nhập, hồn đi, cô đồng lại ngáp. Miệng cô chắc là cửa để hồn chui ra chui vào. Xuân quỳ mãi mỏi chân, lơ đãng ngó ra cửa sổ, tưởng tượng các hồn đang đi mây về gió đông đúc. Mẹ thì thào : " Mãi chưa thấy ông Tuấn về. Mọi khi nhanh lắm cơ." Cô đồng lại ngáp :

- Tuấn đây.

Bà Sâm nhổm lên :

- Anh đã về.

Mẹ bấm tay Xuân. Hai mẹ con dỏng tai nghe. Bà Sâm trách :

- Hôm nay anh về chậm thế.

- Anh bận đi mua thuốc cho em. Qua đò đông phải chờ lâu quá. Thế hôm nọ ngã có đau không ?

Bà Sâm bắt đầu sụt sịt :

- Em vấp vào cái xích chó, chúi đầu xuống. May mà chỉ tím chân thôi chứ không gẫy xương.

Cô đồng dịu dàng :

- Anh đã gọi mà em không nghe. Anh đỡ cho em đấy. Thế em đó bóp thuốc chưa ?

Cô đồng cầm tay bà Sâm, nắn bóp nhẹ nhàng. Mắt cô đồng vẫn khem khép, miệng thủ thỉ :

- Anh thương em.

Nước mắt bà Sâm trào ra, giàn dụa :

- Sao không về thăm, báo mộng cho em ?

- Hôm nọ anh về, là con bướm nâu bay quẩn mãi trong bếp của em đấy thôi. Gớm hai con chó nó cứ vừa cắn vừa sủa. Mấy lần khác thì bà cô ông mãnh nhà em không cho anh vào.

Hồn khoe với bà Sâm đã xin được việc mới, lương khá lắm, bà không phải đốt tiền âm nữa. Hồn lại dặn kỹ tuần sau bà Sâm đi chợ, thấy chị áo xanh bán thuốc thấp khớp thì mua. Thuốc ấy đích thân hồn tìm cho bà, uống vào sẽ đỡ... Trời gần đứng bóng. Nắng chiếu qua cửa sổ sáng rực căn phòng. Xuân kinh dị nhìn bà Sâm với cô đồng ngồi miên man trong nắng, lời tâm sự nửa thật, nửa kỳ quái hoang đường.

Mẹ và Xuân hôm ấy về không. Thăm nom cũng có giờ, hồn ông bà nội ngoại chắc thấy tình yêu của bà Sâm mãnh liệt quá nên nhường. Mẹ cứ tấm tắc hồn thiêng thật, chuyện bà Sâm ngã, đến ông chồng kề bên cũng không biết, thế mà hồn nói vanh vách. Bà Sâm hỉ mũi, ngậm ngùi :

- Ông ấy theo tôi hơn bốn chục năm nay, chuyện gì mà không biết !

Mồ ma ông Tuấn si mê bà Sâm từ lúc bà còn con gái nhưng chả được xơ múi gì ngoài một tấm ảnh. Ông chết trận lúc mới hai tư, ảnh người tình trong mộng đút túi áo ngực cũng chôn theo. Cho đến năm vừa rồi đi gọi hồn, bà Sâm mới ngớ ra là mình được yêu suốt mấy chục năm. Hồn kể ra trăm ngàn kỷ niệm, bao nhiêu lần hồn luẩn quẩn bên bà những khi bà ốm đau, buồn giận chuyện chồng con. Một chồng, bốn con với bảy đứa cháu nội ngoại, thế mà ngẫm suốt đời, hoá ra không ai gần gụi bà như hồn. Mà cũng chỉ có ma mới chung tình vô điều kiện như thế ! Bà Sâm cảm tấm lòng ấy nên nhận lời yêu ma sau hơn bốn chục năm âm dương cách trở. Bà Sâm chia tay mẹ con Xuân, đi ngay ra Hàng Mã. Bà đã hứa với hồn là mua sổ tay và bút máy để hồn chép thơ, chắc là thơ tình.

Nhưng sổ với bút ấy không đến tay được hồn tình. Bà Sâm đang lom khom hoá vàng thì ông chồng ở đâu xồng xộc về. Ông túm tóc bà, lôi thẳng vào buồng. Này thì đồng cốt ! Này thì đú đởn ! Này thì nhân tình nhân bánh ! Không cần tra hỏi, cứ mỗi câu ông thụi cho bà một quả. Hai ông bà già, sức lực chẳng còn mấy, chỉ thấy xương với da đụng nhau lục cục. Bà Sâm không cãi, cũng không đỡ đòn, chỉ khóc. Bà càng khóc, ông càng điên tiết. Mấy chục năm cứ tưởng lấy được con vợ đức hạnh, nào ngờ nó bồ bịch ngay trước mũi ông, làm người ta đồn giăng giăng đến tai ông, rằng ăn ở với vợ ra làm sao mà bà ấy chán đến độ xoay ra mê một cô hồn. Yêu hồn thì làm sao ông kiểm soát được, ai mà biết đêm nào chúng nó cũng tình tẹo với nhau trên giường ông, ông sờ sờ ra đấy mà chúng nó làm gì ông cũng đành chịu. Khốn nạn quá ! Cái sừng vô hình bị ma cắm bốn mươi mấy năm chắc đã sum suê gốc rễ. "Mày yêu ma. Mày có giỏi ngủ với nó được không ? Nó có cái này không?" Ông hùng hục trật quần, phô bày vốn quý hơn hẳn con ma. Nhưng bất chấp nộ khí xung thiên của ông, thằng cu _ bây giờ gọi là ông lão cũng được _ chỉ rủ xuống rất nhu mì. Hai ông bà nhìn chăm chăm vào nó một lúc. Nó rung rung dịu dàng, không ngẩng lên. Ông đỏ mặt, càng giận hơn, chửi : "Đồ ngu" rồi kéo phắt quần lên. Ông lao ra đá tung chậu vàng mã, đái thẳng vào ngọn lửa đang thoi thóp. Cuốn sổ thơ cháy dở dang thâm đen, những lời tình tự không chỗ đậu theo tàn tro bay tứ tung. Ông hầm hầm lên công an phường tố cáo cô đồng hành nghề mê tín dị đoan. Đòn dương đã vậy, đòn âm, ông thuê hẳn một thày pháp cao tay trấn bùa, mấy lá bùa đỏ ngoằn ngoèo dán từ cổng chính vào buồng ngủ. Ông còn đặt con dao dưới gối, doạ ma nào vớ vẩn mò đến ông chém chết. Họp gia đình, ai cũng trách bà dại dột, tin đồng cốt quàng xiên, cúng bao nhiêu tiền cho nó. Bà Sâm đổ ra ốm một trận tưởng chết. Hôm Xuân sang thăm, bà đã đỡ nhưng còn yếu, chỉ ngồi bất động trước tivi, đến cái câu "Ôi giời" mọi khi cũng không thấy bà nói nữa.

Xuân một mình tìm đến cô đồng. Biết là chẳng ích gì nhưng vẫn đến. Có một chút niềm tin dù là hoang đường vẫn còn hơn chẳng có gì. Nhà cô đồng khoá cửa im ỉm. Xuân về, ngang qua quán cà phê cũ. Nắng cuối thu lốm đốm rơi qua tán lim già, lá sẫm xanh, bí ẩn. Xanh như mười năm trước, khi Xuân nói "Em sẽ đi xa", xanh như hôm qua Xuân lại nói "Em muốn trở về". Hai lần cùng nói với một người. Hai lần người ấy chỉ nhìn Xuân thương xót, thương như Xuân nhìn bà Sâm tình tự với hồn ma. Xuân nhớ lúc ấy có một cái lá lim bay tạt xuống mặt bàn. Nó nằm chơ vơ, con mắt xanh lặng lẽ. Mười năm có khi cũng rơi như thế, mười năm, là một phần mấy của cuộc đời ?

Xuân ra sân bay vào buổi chiều cuối năm rét ngọt. Xe băng ngang sông Hồng. Dưới chân cầu những xoáy nước đỏ quạch phù sa như vết thương hun hút. Một lá ngô già ngập ngừng nơi mé nước rồi thong thả xuôi dòng. Xuân ngoái ngược trở lại phía những cụm nhà lố nhố ven đô, cố tìm cái mái củ tỏi màu hồng, sao bây giờ ngó thân thương hơn mọi thứ khác. Gió lùa cay mắt. Ngước lên trời cao, chợt thấy mình không phải là người đàn bà cứng cỏi, mạnh mẽ như bạn bè vẫn bảo, chỉ là con bé Nhịn tay bị giữ chặt, buồn nhìn chữ "Nhẫn" bộ "đao" đè lên bộ "tâm" nghiệt ngã. Lưỡi dao vô hình cắt gọt con tim nông nổi, gọt bao nhiêu cho tròn một kiếp người ?

Xuân ngồi nhìn căn buồng mới thuê trống trải, trang trí duy nhất là cành hoa sữa đã rụng tiệt hoa sau chuyến bay gần trọn một ngày. Tay Xuân luồn trong túi áo mân mê cái chìa khoá ngôi nhà cũ. Nó không quá xa, nửa tiếng chạy xe, Xuân sẽ về lại đấy. Lò sưởi bập bùng, salon bọc da êm ái, và một người đàn ông quen thuộc. Anh ta sẽ đón Xuân vào, đại lượng như đón người đàn bà dại dột, vài năm một lần đem đời mình ra đập vỡ chơi rồi loay hoay hàn gắn lại. Sẽ không đả động gì đến chuyện Xuân đã bỏ việc, đã dọn đi..., những cơn đồng bóng đàn bà. Sẽ bình thản cùng ngồi xem tivi như năm ngoái, năm kia, như mười năm trước. Bình thản cho đến khi anh ta lột chiếc áo ngủ, ấn giúi Xuân xuống nệm. Vùi sâu, xoáy lút những nhát đâm ngoáy vào vết thương chưa bao giờ khép miệng giữa hai người... Xuân rùng mình, rút hẳn chìa khóa ra khỏi túi, tìm một phong bì. Nắn nót viết lên địa chỉ căn nhà cũ. Bỏ chìa khóa vào. Dán kín.

Khi Xuân từ bưu điện trở về thì pháo lác đác rộ lên. Sắp giao thừa. Xuân mở gói quà mang theo từ Hà Nội. Một bức thư pháp. Mực tàu đen đằm trên nền giấy dó, nét bút tinh anh, phóng khoáng. Chữ "Tâm". Không có bộ "đao" ở trên, chỉ một chữ "tâm" thật đậm, cái đường móc hất lên, nửa như khát khao, nửa như thách thức. Xuân treo bức thư pháp lên khoảng tường trống gần cửa. Gió lùa qua khe chữ lay nhè nhẹ. Văng vẳng tiếng chuông nhà thờ. Xuân mở tung cửa sổ. Úp mặt vào làn không khí giá băng tinh khiết, nồng nàn hương pháo. Nền trời đen thẫm bùng lên muôn vạn chùm hoa lửa. Nước mắt ấm trên môi, Xuân nhận món quà sinh nhật bố mẹ đã dành cho từ lúc chào đời. Một năm mới phong kín như chưa từng mất mát. Nguyên Xuân.

14/02/2002
Viết cho ngày sinh
Phạm Hải Anh

Những Ngày Điên

Lần đầu tiên biết yêu, tôi lặn lội hơn ngàn cây số từ Sài Gòn ra Hà Nội chỉ để gặp mặt người ấy trong vài giờ đồng hồ ngắn ngủi, chỉ để được nhìn thấy cái thành phố nơi người ấy đang sống, hít thở cái không khí nơi người ấy đang thở… Tôi đã đi bộ hàng chục cây số lang thang khắp Hà Nội, dạo vài chục vòng Hồ Gươm, đến khi rã rời thì lặng lê ngồi trên ghế đá nhìn mãi màu nước xanh lờ đờ và thấy đầu óc mình trống rỗng. Phải mất mấy ngày điên dại như thế, tôi mới nhận ra Hà Nội thật xa lạ với mình, để rồi lại tỉnh táo chia tay, tỉnh táo khoác ba lô lên vai, bình thản trở về. Trên chuyến tàu S2 Hà Nội – Sài Gòn, tôi chong mắt thức suốt ba đêm để đi đến một kết luận, rằng tình yêu chỉ làm cho mình trở nên yếu đuối, khốn khổ, và tự khuyên mình khôn hồn thì tránh xa đàn ông và đừng yêu nữa…
Nhỏ bạn thân đón tôi ở ga Hoà Hưng, hỏi tới tấp:
- Có gặp không?
- Có!
- Thế nào?
- Hết rồi!
- Hết? Hết nghĩa là sao?
- Là chấm dứt. Là quên. Là không yêu nữa, được chưa? Bây giờ mày cho tao về nhà đi. Tao buồn ngủ quá
Nó nhìn chăm chú bộ mặt xơ xác, đôi mắt thâm đen vì mất ngủ của tôi, lắc đầu
- Mày điên quá!
Ngày xưa, mẹ tôi cũng thường nói với tôi y như vậy. Khi tôi hét toáng lên và ném vỡ lọ mực vì không giải được bài toán khó. Khi tôi cứ thích leo tót lên cây vừa ăn cơm vừa đọc những cuốn sách dày cộm. Khi mỗi đêm tôi lại bắc thang trèo lên mái nhà nằm hát nghêu ngao…
Thỉnh thoảng, khi ba say, tôi cũng sợ ba điên. Những lúc ấy, ba trở nên hung dữ và tàn nhẫn, mắt ba long lên, đỏ ngầu, ánh nhìn nửa lờ đờ, nửa soi mói, giễu cợt… Ba nhiếc móc mẹ, chửi bới từ ông hiệu trưởng dê xồm thích tán tỉnh các cô giáo trẻ cho đến cả nghề dạy học của mẹ. Mẹ học không nhiều, mười mấy năm làm cô giáo tiểu học trường làng kiến thức mai một đi, gói gọn trong mấy phép toán, mấy bài tập làm văn đơn giản. Mẹ chẳng biết gì về thời sự trong nước hay quốc tế, càng không biết gì về triết học hay khoa học… Con đường mẹ đi mỗi ngày chỉ là từ nhà đến trường, ra chợ rồi về nhà. Dến mùa thì lên rẫy nhổ mì, ra ruộng gặt lúa. Và hết. Thế giới của mẹ loanh quanh chỉ có một cái xã bé nhỏ. Chuyện mà mẹ biết nhiều nhất là làm thế nào để chiều chuộng người chồng khó tính và nát rượu của mình. Và làm chiếc cầu nối giữa ba với bọn tôi, những đứa con bị các cơn say của ba làm cho hoảng sợ, đến nỗi thấy ba là lại len lén lỉnh đi. Bởi thế mà trong những cơn say, ba thường bắt mẹ ngồi bên cạnh cho đến tận khuya, hỏi mẹ như trong một cuộc thi kiểm tra kiến thức hay một trò chơi trí tuệ. Chị em tôi rúm ró ngồi trong một góc, nhìn mẹ thinh lặng chịu thua một cách nhẫn nhục, và nhìn ba chửi bới mẹ là một người đàn bà tầm thường, dốt nát, mà nghe tim mình đau thắt lại tưởng chừng không chịu nổi. Những phẫn nộ trước cuộc sống khô khan được ba mang từ ngoài đường về trút lên những đồ vật trong nhà. Ở nhà tôi, từ chiếc đũa tre đến cái cát-sét, không có cái nào chưa từng bị thương tích, sứt sẹo. Chỉ còn cái ti vi 14 inch, mỗi lần thấy ba đi liêu xiêu về từ đầu ngõ, thằng em tôi lại lui cui khiêng giấu xuống gậm giường.
Có hôm, hơn một giờ sáng, ba thấm rượu, thức dậy đuổi mẹ con tôi ra hiên và khoá cửa lại. Em tôi đã quen với những chuyện điên loạn khi ba say, cuộn tròn người nằm chèo queo ngay trước cửa ngủ ngon lành. Mẹ nhẫn nhục ngồi khóc bên thềm nhà, và khi uất ức không chịu nổi thì đay nghiến tôi: “Coi chừng đó, dòng họ ba mày có máu điên mà”
Tôi cũng sợ mình có máu điên.
Nghe nói, từ lúc còn nhỏ, cô Hân tôi đã có thần kinh không bình thường. Hàng ngày, cô vẫn đi chợ bán hàng kim chỉ, vẫn nhận đồ về thêu. Nhưng thỉnh thoảng lên cơn, cô lại quên đường về nhà, quên hết mọi sự, nhìn đám cháu nghịch ngợm như một lũ chó hoang. Mắt long lên, răng nghiến lại, có cầm cái thước may đuổi chúng tôi chạy táo tác. Đứa nào chạy chậm rơi vào tay cô thì cứ yên tâm là bị nhừ đòn, cô sẽ quật như quật vào một cái bao cát. Các chú tôi lao vào giằng ra thì bị cô cắn, xé, giật tóc tơi tả…
Vậy mà đến một ngày, cô tôi yêu. Người đàn ông điển trai với hàng ria con kiến, cứ một hai hôm lại lễ phép đến xin ông bà nội đưa cô đi chơi. Nghe nói là anh trai của một người bạn hàng bán gần chỗ cô. Hắn ở chợ, trông cũng xứng đôi với cô, vốn xinh nhất so với chị em trong nhà.
Chẳng hiểu anh ta có biết cô tôi thỉnh thoảng lại lên cơn bất tử hay không, nhưng điều dễ nhận ra là từ lúc quen anh ta, cô tôi trở nên hiền lành trong một thời gian rất dài. Ông bà nội hy vọng và hy vọng. Nhưng đến gần ngày cưới thì đột nhiên anh ta không đến nữa. Cô Hân chẳng có vẻ gì đau khổ hay buồn rầu, nhưng lại im lặng một cách đáng sợ, ai hỏi cũng không trả lời, chỉ cười ngớ ngẩn. Bà nội tôi khóc rưng rức từ ngày này sang ngày khác. Ông nội thở dài, còn ba tôi và các chú thì nghiến răng ken két: “Thằng mất dạy. Mày mà để tao gặp lại thì tao đập cho vỡ mặt”. Nhưng anh ta biến mất như chưa từng xuất hiện, nghe phong thanh đã chuyển nhà ra Bắc…
Cô tôi có thai, sinh thằng bé đẹp như thiên thần, mắt to, mũi cao, miệng xinh, nhưng càng lớn, mặt nó càng có vẻ rất du côn làm tôi lo lo… Mọi người trong nhà cũng nhận ra điều đó, và cũng lo lo, nhưng không ai nói ra cho đến ngày mẹ tôi thẽ thọt: “Thằng Cu con cô Hân có nét gì đó lì lợm giống… chú Hiên quá… Không biết lớn lên…”
Tôi lặng người đi. Chú Hiên chính là cái gót chân Asin của gia đình nhà nội, là một điểm mà bất cứ ai chạm vào cũng có thể làm cả những người đàn ông mạnh mẽ nhất trong gia đình ngã quỵ. Mắt mí lót ngang tàng, thông minh, mũi cao, da nâu, gương mặt rắn rỏi và khuôn miệng bướng bỉnh, chú Hiên có một vẻ đẹp lạnh lùng rất đàn ông. Thỉnh thoảng, những cô gái bị chú tôi gạt gẫm lại đến thăm nhà. Đẹp có, xấu có, sáng sủa có mà ngớ ngẩn cũng có, nhưng tất cả họ đều giống nhau, đều si mê và đau khổ một cáhc tự nguyện, tuyệt nhiên không hề oán trách. Chú tôi có những ngón tay đẹp và dài rất nghệ sĩ. Đôi lúc chú cũng nặn tượng vẽ tranh, và chơi guitar tuyệt hay. Nhưng với mọi thứ nghề, chú dễ dàng đam mê bao nhiêu thì cũng nhanh chóng chán nản bấy nhiêu. Xét cho cùng, chú cũng thuộc loại người tài hoa, nhưng là sự tài hoa nửa vời. Và sự tài hoa nửa vời bao giờ cũng đẩy người ta đến đường cùng. Bởi một người tài không trọn vẹn là một người không thể làm được điều gì lớn lao, nhưng lại luôn khát khao làm được những điều lớn lao. Đấy chính là bi kịch. Tài hoa nửa vời, thêm một chút cuồng nộ, một chút yểu hèn. Thế là điên. Cuộng nộ với cuộc đời và hèn yếu với bản thân.
Chú Hiên vốn không điên, nhưng lại dễ sa đà vào những trò may rủi đầy nguy hiểm, trai gái, cờ bạc, hút xách, đua xe, không thiếu thứ gì. Biết rằng mình không sa đà, nhưng quá kiêu ngạo để trở thành lương thiện. Môi chú tôi thâm tím lại vì thuốc, và thường chỉ trở về nhà khi đã say bí tỉ. Bà nội khóc, ông nội và cách chú khuyên nhủ, la rầy, rồi năn nỉ… tất cả đều không mang lại được thay đổi gì. Nhưng khi tỉnh táo lại chỉ nói chuyện làm ăn khổng lồ mà chỉ mới nghe qua cũng đủ biết là phi thực. Chỉ có điều, chú Hiên nói một cách say sưa, như tin chắc rằng mình sẽ làm được nếu mọi người và cuộc đời cho chú một cơ hội nho nhỏ. Mọi người lắc đầu: “Thằng điên!”… Cho đến một ngày ai cũng nhớ, chú tôi trở về say khướt, tơi tả và hoang dại như một con sói rừng đang say máu, kề dao bên cổ bà nội bắt đưa tiền để đi làm ăn… Ông nội quỳ xuống van xin. Ba tôi chộp được con dao và quẳng chú ra đường. Hai tiếng đồng hồ sau, người ta đến báo cho biết chú Hiên đâm đầu vào xe tải, chết cách nhà không xa.
Đó là lí do vì sao mẹ toi thường nói trong những lúc uất ức: “Dòng họ nhà ba mày bị điên!”. May mà ba không nghe rồi có khi ba điên thật.
Thỉnh thoảng, tôi cũng nghĩ mình điên. Đó là những buổi tối trời mưa, ngồi một mình trong đêm khuya nhấm nháp những giọt cà phê đắng tê lưỡi, tôi bỗng nhận ra mình đang cười mà chẳng biết vì sao. Đó là những ngày chạy xe giữa đường, đầu óc bỗng chẳng nhớ gì đến gia đình, bạn bè, bài vở, chỉ thấy buồn, thấy mình sao trống rỗng, cô đơn và vô dụng đến nỗi muốn quay đầu xe đâm vào đâu đó… chết quách cho xong.
Cô Hân không ra bán ở chợ nữa, nhưng vẫn lặng lẽ nhận hàng thêu. Đôi lúc tôi thấy cô ngồi ngẩn người ra, đôi mắt dại đi một cách đáng sợ. Thỉnh thoảng cô nổi cơn điên lại xách cây rượt thằng bé chạy có cờ… Càng lớn, cái mặt nó nhìn càng lì lợm. Ông bà nội tôi mất chỉ sau chuyện cô Hân vài năm, trong buồn đau và bênh tật. Ba vẫn uống say rồi dặn vặt mẹ, mẹ dằn vặt tôi, và tôi dằn vặt chính mình.
Tôi không muốn yêu nữa một phần vì mối tình đầu không đi đến đâu, một phần vì chuyện cô Hân và chú Hiên. Nhìn cô Hân, tôi đâm sợ những người đàn ông có hàng ria con kiến. Tôi càng sợ những người đàn ông đẹp trai có đôi mắt ngang tàng, bởi chúng cứ làm tôi nhớ về chú Hiên.
Nhưng rồi, có một ngày, một người đàn ông khác lại đến, cũng phảng phất một chút ngang tàng, nhưng thật lạ là không làm tôi sợ. Anh vực tôi dạy, làm cho tôi tin rằng mình có chút tài năng và bắt tôi làm việc. Tôi thấy mình bớt điên đi. Tôi nhận ra rằng cái thứ tình cảm mà tôi lẩn tránh lại ập đến, chiếm hết trái tim và suy nghĩ của tôi. Nó làm tôi hạnh phúc, và sợ hãi. Người đàn ông của tôi khá tỉnh táo. Và có bao nhiêu cuộc tình đã đến rồi đi trong đời anh, tôi cũng không biết nữa. Yêu hay không yêu, yêu nhiều hay yêu ít, đích thực hay ngộ nhận, anh đều đã trải qua. Tôi đọc được trong mắt anh cả sự hoài nghi lẫn nỗi chán chường. Nhiều lúc, anh nhìn tôi như muốn nói: “Cô bé ơi, cô biết gì về cuộc đời này kia chứ”. Anh thừa biết cuộc đời không đơn giản với những gì được mất. Anh thừa biết thời gian có thể làm phai mờ cả những vết thương lòng lẫn tình yêu… Và tôi, chưa tròn 24 tuổi, tôi chỉ là một người đàn bà chưa thành hình trọn vẹn, chưa đủ trải nghiệm và đau đớn để có thể lấp đầy nhưng mất mát trong anh. Tôi chỉ là một đứa bé con ngây thơ và sợ hãi, hãi sợ cả mối tình đầu tiên chưa có gì đau khổ để đến nỗi phải trốn chạy tình yêu. Nhưng hình như, tôi đã quen một mình, nghĩ một mình và đau một mình. Tôi sợ cảm giác yêu, vì cả nỗi khao khát được yêu lẫn nỗi sợ hãi bị phản bội, bị bỏ rơi đều mạnh mẽ và day dứt như nhau…
Rất nhiều đêm, nhớ người đàn ông của mình không ngủ được, tôi leo lên mái nhà, nằm ngửa mặt lên trời và khóc. Những vì sao thì ở rất xa, nhưng chúng lại luôn lấp lánh, giống như tình yêu vậy. Tôi tự hỏi mình sẽ bay lên trời để nắm lấy hay chờ chúng rụng xuống trên tay. Tôi nghĩ đến cô Hân, nghĩ đến chú Hiên… Tôi nghĩ đến tôi, đang đêm thức dậy leo lên mái nhà, ngửa mặt lên trời mà khóc. Và tôi nhận ra rằng, đúng thật là tôi cũng có một chút điên trong dòng máu… Một người quá tỉnh táo như anh có thuần hoá được tôi chăng? Và tình yêu của anh có đủ để giúp tôi vượt qua những ngày điên của mình, vượt qua một chút yếu hèn để đến với anh chăng?
Đôi khi, tôi cũng nhớ đến mối tình đầu, và tự hỏi tại sao nó không đủ làm cho mình đau khổ khi chấm dứt, nhưng lại đủ sức thôi thúc tôi đi một mình ra tận Hà Nội chỉ để làm một chuyện là nhìn thấy người ấy. Tôi chợt hiểu, có những điều mà người ta chỉ có thể làm được khi ở vào một thời điểm nào đó. Khi qua rồi, người ta mới biết rằng mình đã từng rất điên.

Bồ Công Anh

Thuơng Nhớ Hoàng Lan

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?". Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ". Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H". Rồi bà cười hả hả: "Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

Cô ruột tôi giận lắm bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói: "Ðừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni".

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...

Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?". Tôi chỉ lắc đầu...

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: "Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong". Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: "Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng". Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ".

Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi".

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?". Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu: "Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong". Thầy cười: "Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây". Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa".

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa".

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

"Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra" Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn".

Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu..." Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn. "Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt "Ði về!". Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?". "Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi. "Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?". Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?". "Thích". Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?". Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...

Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu". "Không có lửa, sao có khói. ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?"

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

"Con ma nữ" đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?". Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ. "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?". Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch thầy". Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn". Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình". Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi".

Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến. "Chú Ninh!".

Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại...". Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan.

"Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...

Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...".


Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?"

Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?". Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

Trần Thuỳ Mai
Huế, 12-2000

Nhớ Biển

Có người đứng trước biển mà nhớ thương biển khôn nguôi. Ấy là vì vẫn buổi chiều nhạt nắng này, vẫn mênh mông thẳm xanh kia, vẫn gió, vẫn sóng... mà thiếu một người.

Một người ngỡ đã đi xa từ lâu lắm, giờ mới biết chỉ vừa đi đấy thôi. Một tình yêu ngỡ đã ngủ yên từ lâu lắm, giờ mới biết bao năm, bao tháng qua tình yêu ấy vẫn như một đốm lửa lấp lánh sáng không bao giờ tắt.

Ấy là vì câu chuyện Nhiên kể cho má chiều nay. Câu chuyện bắt đầu từ buổi chiều Nhiên gặp ba lần đầu tiên; khi Nhiên mới chỉ là một cô bé mười tuổi vừa theo má từ Nha Trang về sống trong ngôi nhà cũ của ngoại ở thị trấn Ninh Hòa.

Buổi chiều ấy cũng giống như buổi chiều này, nắng rất nhạt. Nhiên bưng một rổ đậu phộng luộc to ra bán ở biển Dốc Lết. Cô bé đang ghé mắt coi một đám thanh niên chơi bài thì nghe tiếng gọi:

- Nhiên ơi, Nhiên.

Nhiên quay lại, thấy hai người đàn ông. Một người thì quen quá là quen, đó là bác Sáu, bạn thân của má. Nhà bác trong Ninh Đa. Hôm má con Nhiên mới về, bác Sáu và mấy anh con trai bác ra phụ lợp lại mái nhà, sửa sang lại hàng rào và làm cỏ trong vườn.

Bác Sáu đỡ rổ đậu trên tay Nhiên, vừa đi ngược lại quán nước gần đó vừa nói:

- Bác tìm con nãy giờ.

Nhiên lũn cũn chạy theo hỏi: - Có gì vậy bác?

Bác Sáu đặt rổ đậu lên bàn nước, ấn Nhiên ngồi xuống một cái ghế, chỉ người đàn ông bên cạnh:

- Nhiên, đây là ba của con - rồi bác nói tiếp luôn như thể cái điều bác vừa thông báo chẳng có gì lạ - Giờ bác mắc công chuyện, con ngồi đây nói chuyện với ba con nghen.

Nhiên ngồi lặng thinh, nghĩ sao mà kỳ. Nhiên là đứa trẻ lớn lên trên gánh rau của má. Hồi đó, má bị ông ngoại ép gả cho ba, về làm dâu nhà nội chưa được bao lâu thì ba đi nhậu bị trúng gió chết. Má sợ ông bà nội bắt mất Nhiên nên bỏ trốn, cũng không dám về với ngoại. Má ở lại Nha Trang mướn nhà, bán rau muống nuôi Nhiên. Mãi mới đây khi ông ngoại mất má mới đưa Nhiên về.

Đó là Nhiên nghe má kể vậy, trước giờ Nhiên cũng tin vậy. Tự dưng ở đâu lại có một người bảo là ba, hiển hiện trước mắt Nhiên, cao lớn và... còn sống.

Người ấy ngồi xuống cái ghế đối diện Nhiên, cố kềm nỗi xúc động trong giọng nói:

- Ba tìm má con con từ lâu.

Nhiên cũng cố nhè nhẹ thở ra:

- Ba con chết rồi.

Người đàn ông nhìn Nhiên dịu dàng:

- Ba biết là má nói vậy, vì má giận ba.

Nhiên lại ngồi lặng thinh, lòng đầy nghi ngờ, má có bao giờ nhắc tới ba đâu. Mãi nó mới lại thốt ra một câu bướng bỉnh:

- Sao má lại phải giận ba?

- Ba nghèo, ba không lo được cho má con con, lúc ba trở lại thì má đã đi rồi.

Nhiên nhìn chăm chăm người đàn ông như tìm kiếm xem có gì thân quen trên gương mặt đó không. Người đối diện nó có một đôi mắt buồn thăm thẳm, đôi mắt đó đang nhìn nó, chờ đợi. Nhiên lắc đầu:

- Dù sao thì ba con cũng chết rồi.

Nhiên cảm thấy đôi mắt buồn thẳm kia đang ngấn nước, hay vì nắng chiều ngược sáng nên Nhiên nhìn không rõ. Thường thường coi phim mà gặp mấy cảnh như vầy nó lại hay mủi lòng, sống mũi lại cay cay, mắt lại lòe nhòe.

Người đàn ông tháo ra từ dưới cổ áo một sợi dây chuyền đưa Nhiên hỏi:

- Con đã bao giờ thấy cái này chưa?

Sợi dây bằng len đã cũ, cái mặt bằng bạc có hai chữ T lồng vào nhau. Má Nhiên cũng có một sợi y chang.

Đứa trẻ mười tuổi chưa bao giờ được ở trong vòng tay cha, chồm qua bàn ôm cổ người đàn ông. Ba nhấc bổng Nhiên lên siết chặt. Nhiên thấy mình có nhiều cảm giác lẫn lộn, không biết đang tủi thân hay đang hạnh phúc, có chút gì giận giỗi nhưng lại ấm áp và vui sướng.

Nhiên cố không khóc nhưng giọng nó vẫn nghèn nghẹn:

- Ba, con giận ba lắm.

- Ba biết, ba xin lỗi con.

Suốt chiều, Nhiên ngồi trong lòng ba. Hai ba con vừa nói chuyện vừa ăn đậu phộng luộc. Trước mặt là biển mênh mông, giống như hạnh phúc đang ngập ứ trong lòng mà cả đời Nhiên không thể quên.

Cuối ngày, ba chở Nhiên về thị trấn, ba dừng xe gần nhà đưa Nhiên một ít tiền dặn:

- Con về đưa cho má.

Nhiên lắc :

- Con lấy bằng tiền bán đậu phộng thôi, còn con về hỏi má.

Ba nắm nhẹ vai Nhiên:

- Con đừng nói với má con gặp ba.

- Sao vậy ba?

Niềm hân hoan mong được chạy về khoe má của Nhiên đột ngột bị chặn lại.

- Má giận ba lắm, nếu má biết má sẽ không cho ba gặp con.

Nhiên gật gật, thấy ba có lý. Nhiên cũng hơi giận má vì bấy lâu cứ bảo là ba chết rồi. Nếu nói là ba còn sống mà sống ở đâu đó má không biết thì Nhiên cũng đã được an ủi là mình có ba, được hi vọng là sẽ gặp ba. Vì vậy Nhiên cũng quyết lòng giữ bí mật này cho hai ba con thôi.

Lần thứ hai gặp Nhiên, ba nói Nhiên thôi đừng đi bán đậu phộng luộc nữa, ba vuốt tóc Nhiên xót xa:

- Con bé bỏng thế này.

Nhiên cười:

- Ba nói y như má, má nói để má lo nhưng dạo này má đau hoài, không đi lại được nhiều, má ngồi ngoài ngã ba bán thuốc lá là đã đau hết mình mẩy rồi, còn phải đóng tiền trường cho con.

Ba nhìn ra biển mà mắt ba xa xăm như hướng về cái gì đó ở ngoài biển nữa.

Nhiên lắc lắc tay ba an ủi:

- Không sao đâu ba, con khỏe lắm mà.

Ba cười, lùa tay gỡ tóc rối của Nhiên:

- Được rồi, cứ để ba tính.

Chẳng biết ba tính sao mà tuần sau bác Sáu qua nói chuyện với má. Rồi má nói với Nhiên: "Bác Sáu muốn mướn mặt bằng nhà mình mở quán nước, nhờ má phụ trông coi luôn. Má tính tiền công và tiền mướn nhà cũng đủ cho má con mình sống mà con khỏi phải đi bán nữa".

Quán ở ngay thị trấn nên dần dần đông khách. Nhiên một buổi đi học một buổi ở nhà phụ má bưng bê, rửa ly tách.

Ba ở Nha Trang, mỗi khi ra thăm Nhiên lại nhờ con bác Sáu chạy qua nhắn. Hai ba con lại ra biển, ba nói: "Hồi ba quen má, ba má hay ngồi chỗ này nè. Hồi đó nghèo quá ba chẳng mua được gì cho má, dành dụm mãi mới đánh được hai cái mặt dây chuyền giống nhau, ba một cái, má một cái; mà sao con gái ba càng lớn càng giống má vầy không biết".

Nhiên cười trong gió:

"Vậy hồi đó má đẹp như con hả".

Thời gian sau, bác Sáu sang lại quán cho má, má mướn thêm người làm. Nhiên lên cấp III nên chỉ tập trung vào việc học. Khi lớn và biết nghĩ Nhiên nói với ba hãy gặp má đi, lâu như vậy chắc má không còn giận đâu. Ba bảo thôi, ba nhìn xa xa thấy má con khỏe là ba vui rồi. Lòng má đã yên bình, không nên khuấy động lên làm gì.

Ba nói vậy là Nhiên biết ba thương má lắm, hiểu má lắm. Nhiên biết ngày trước má hay buồn, hay nhìn cái mặt dây chuyền mà khóc. Bây giờ thì lòng má đã như mặt hồ lặng gió. Nhiên vòng tay ôm cổ ba: "Ba ơi, con thương ba quá chừng".

Đó cũng là buổi chiều khác những buổi chiều ba con Nhiên gặp nhau. Trời xám và nặng sũng, chỉ còn một vạt nắng cuối ngày hắt sáng lên đám mây xa phía chân trời. Biển ầm ào sóng.

Ba nhìn Nhiên cũng lạ, thương yêu và thẳm sâu:

- Tới đây ba mắc công chuyện phải vô Sài Gòn, chắc cũng lâu. Con sắp thi đại học mà không biết ba có về kịp không. Nếu ba chưa kịp về, con vô Nha Trang thi thì ghé thăm nội.

Lời hứa thăm nội hôm qua Nhiên mới thực hiện được. Vì bữa Nhiên thi, má đưa đi nên Nhiên không tiện ghé. Mới rồi Nhiên nhận được giấy báo đậu đại học, lòng náo nức vui mừng muốn báo cho ba và nội hay. Nhiên xin phép má vô Nha Trang chơi một ngày. Mở cổng cho Nhiên là một bà cụ có lẽ đã gần tám mươi.

Nhiên vòng tay thưa:

- Con chào nội.

Nhiên nghe giọng nội run run:

- Nhiên phải không, vô đây con.

Nhiên theo nội ngang nửa sân đã dừng lại. Bởi vì từ đó nhìn vào trong nhà Nhiên thấy bàn thờ của ba, khăn điếu còn mới, nhang đèn còn sáng.

Nội đi vô đến nhà không thấy Nhiên đâu lại trở ra.

- Ba con bị xơ gan, mới biết bệnh mấy tháng đã đi rồi, hôm ba con đau nặng nội nói nhắn con nhưng ba con không cho, sợ con buồn mà thi không được.

Chuyện đó chiều nay Nhiên kể má nghe, Nhiên nói thêm: "Mai mốt đi học con vô ở với nội, nội có một mình". Má không nói gì, lẳng lặng bỏ đi.

Cuối ngày Nhiên hốt hoảng đi tìm má, qua bác Sáu rồi ra biển. Nhiên thấy má ngồi trên cát, tay cầm sợi dây chuyền. Giữa mênh mông chiều Nhiên thấy má sao mà nhỏ bé.

Người đàn bà ngồi đó, chốn cũ cảnh cũ... khắc khoải nghĩ về một người. Một người đã cho đứa con gái bé nhỏ của mình tình yêu thương của một người cha, cho con lớn lên yên bình và hạnh phúc, đầy đủ và kiêu hãnh. Người đó kỳ thực không phải là ba của Nhiên, mà chỉ là người thương của má. Hồi đó má còn quá trẻ và vì sợ ông ngoại má đã phụ lòng người thương.

Bởi vậy nên chiều nay có người đứng trước biển mà thương nhớ biển khôn nguôi.

Huỳnh Việt Hà

Cứng Đầu

Ngày xưa, tôi nổi tiếng về cái tật cứng đầu. Mẹ tôi bảo tôi cứng đầu vì cái trán dô. Điều đó thì tôi không biết, nhưng tôi biết chắc là tôi cứng đầu vì tôi giống bố tôi, nên tôi chẳng lấy làm phiền khi bị kêu như vậy. Mà các cụ mình vẫn nói "con giống cha, nhà có phước" phải không em ? Vả lại, tôi cứng đầu một cách ... thông minh, chớ tôi đâu có ngoan cố. Em không hiểu sự khác biệt giữa ngoan cố và cứng đầu à ? Này nhé, một người ngoan cố là một người cứ khăng khăng cho là mình phải. Còn một người "cứng đầu một cách thông minh" là một người, khi gặp phải một vấn đề, ráng tìm hiểu và quyết định kỹ càng, để rồi luôn giữ vững lập trường của mình, mặc lời thiên hạ dị nghị, bàn cãi. Ô hay, em vẫn không hiểu à ? Thế này thì .... kỳ thiệt. Nhưng thôi, để khi khác mình hãy bàn tiếp. Bây giờ tôi kể em nghe một chuyện về cái tai hại của sự cứng đầu nhé ?


oOo



Tôi lớn lên trong một gia đình nhiều con gái. Các chị tôi xưa như... khủng long vậy đó. "Nam nữ thọ thọ bất thân" là chuyện đương nhiên đối với các người chị dễ thương nhưng rất ư bảo thủ này. Lớn lên trong hoàn cảnh đó, tất nhiên ngày đó tôi có những ý tưởng "khác thường" về quan hệ gái trai. Ồ, tôi có bạn gái chứ, nhưng không bao giờ tôi để cho tôi hoặc cho các nàng vượt qua lễ giáo. Dám hôn nhau là đã quá trời rồi. Ngày đó, em có biết là tôi sợ nhất cái gì không ? Tôi sợ nhất là phải nghe những lời yêu đương thắm thiết từ những cái miệng xinh xắn, đáng yêu của các nàng. Ôi chao ôi, tôi không hiểu làm sao mà các nàng có thể dễ dàng thốt ra những lời như vậy. Những lời ấy, lẽ ra phải như tạc vào đá, bị các nàng lạm dụng nên lại hoá ra nhẹ như tơ trời. Với tôi, những lời ấy chỉ để cho người bạn đời trăm năm, thành thử tôi luôn bị các nàng giận dỗi.

Và vì tôi không không muốn bị các chị cạo đầu bôi vôi, tôi đem chuyện này ra vấn kế gã bạn thân nhất của tôi. Gã bảo:

- Mày khờ quá. Con gái nó nói yêu mày thì mày phải nói lại là mày yêu nó chứ. Có khi nó không nói mà mày cũng phải nói nữa là. Nói có chết ai đâu. Mày nói thì nó sẽ vui và tao bảo đảm mày cũng sẽ được vui ...

Nói tới đây thì hắn nháy mắt nhìn tôi một cách rất gian ác.

Tôi chịu, chẳng thể nào muối mặt làm chuyện đó, nên tôi mãi cứng đầu, mãi bị người ta "hổng thèm". Và mãi như vậy cho đến khi tôi gặp và yêu nàng. Lúc đó thì tôi lại càng khổ hơn vì tim tôi thật sự yêu nàng, muốn nói với nàng những lời ấy, nhưng cái đầu của tôi lại cấm cản chẳng cho, vì tôi và nàng vẫn chưa là gì với nhau cả. Tôi đành yêu nàng rất ư tiện tặn, nghĩa là lâu lâu cái đầu ngủ gật, trái tim bảo cái miệng thì thầm vội vã những câu "Yêu em". Cũng may, nàng cũng không phải thuộc loại người ướt át, hay nói những lời mùi mẫn, nên tôi chưa bị phát giác. Cho đến hôm đó.

Hôm đó, chẳng là ngày gì hết, chỉ là một ngày chủ nhật đẹp trời. Tiền để lâu ngày sợ mối ăn, tôi mua tặng nàng một bó hoa. Nàng vòng tay ra sau cổ tôi, vít đầu tôi xuống, thưởng cho tôi một cái hôn thật nóng bỏng, thật tuyệt vời. Rồi nàng thỏ thẻ rất cải lương:

- Em yêu anh !

Tôi gật gù, mắt lim dim, thưởng thức hương vị mầu nhiệm của nụ hôn. Ý chừng như nàng không rõ cái gật đầu của tôi có nghĩa là "anh đồng ý cho em yêu anh", hay là "anh cũng yêu em", nàng nũng nịu bảo:

- Anh ! Sao anh không nói anh yêu em ?

Lẽ ra, nếu nàng không nói thì chắc chắn (?) tôi cũng sẽ nói tôi yêu nàng, chẳng chóng thì chày, chẳng ngày mai thì cũng ngày kia. Nhưng bị "sai khiến" như vậy, tôi trở nên... cứng đầu. Con trai họ Doãn vốn không thích bị sai bảo, cho dù việc ấy có dễ dàng, có tự nhiên như nói yêu em. Và tôi tiếp tục lặng im.

Nàng buông tôi ra, giọng đầy trách móc.

- Chẳng bao giờ anh nói anh yêu em cả !

Đến đây thì toàn thân tôi được đặt vào tình trạng báo động đỏ. Ngọn gió chiến tranh nhanh chóng thổi đi những cảm giác lâng lâng. Phe ta phản pháo yếu ớt.

- Trời ơi, chắc em lẫn rồi ! Anh nhớ rõ ràng, mới hôm trước, khi đi bộ từ phố Tàu về đây, anh đã nói với em câu đó.

Tôi vẫn tránh thốt ra câu ấy, dùng chữ "đó " thế vào.

- Hôm trước cách đây hơn ba tuần rồi.

Nàng phụng phịu nói.

Chắc nàng tưởng tôi sắp... lẫn như nàng chăng ? Khỏi cần nàng nhắc tuồng tôi cũng dư biết "hôm trước" là hôm nào mà. Giá như lúc ấy tôi biết im, biết chịu thua thì chắc tôi cũng sẽ được tha thứ. Tiếc rằng ngày ấy, tôi còn ngu lắm, vẫn còn tính chấp nê. Tôi ráng cãi đến kỳ cùng.

- Thế sao em lại bảo chẳng bao giờ ?

- Ý em muốn nói là khi em nói em yêu anh, chẳng bao giờ nói anh yêu em hết. Nhiều lúc em cảm thấy...

- Em thật là vô lý. Tình yêu có thể biểu hiện qua ánh mắt, bằng hành động, cứ gì phải nói ra. Em bắt anh nói ra như vậy, anh thấy làm sao ấy.

- Nhưng nếu anh ngại ngùng khi nói yêu em thì anh không có thực sự yêu ẹm Và như thế thì em cũng chẳng muốn anh nói nữa. Em không muốn anh phải dối lòng.

Ôi, cách cãi nhau thật đàn bà ! Lý luận vững chắc, pha thêm chút hờn dỗi đáng yêu. Cãi nhau kiểu đó, đàn ông chúng tôi chẳng thể nào thắng được.

Thấy mặt này quân ta thua xiểng niểng, khó có mòi vớt vát được, tôi bèn thay đổi chiến thuật, dùng kế "Đánh Tề để cứu Triệu", chơi trò luận công hãn mã.

- Thế tuần rồi, ai bỏ mứt mận, bỏ ô mai vào hộp thơ của em ?

- Anh.

Nàng nhìn tôi với đôi mắt biết ơn. Cú đòn tâm lý này, nhắc đến những món nàng ưa thích nhất, thật hiệu quả. Quân ta thừa thắng xông lên.

- Em đi làm khuya ai đưa đón ?

- Anh.

- Khi anh đi xin việc trên Boston, vắng em một ngày, anh viết cho em mấy lá thư ?

- Hai lá nhưng ...

Tôi cướp lời, không muốn cho nàng nói nốt "... nhưng trong thư, anh không có nói yêu em".

- Nhưng với nhị gì nữa ? Như vậy không là... ấy thì còn là gì ?

Tôi "lý sự" đến đây thì mắt nàng đỏ lên. Nàng chớp mắt thật nhanh rồi hàng lệ, như cơn mưa rào ngày hạ, thình lình đổ xuống.

Thượng Đế hỡi, không biết người đã dùng cái xương sườn nào để tạo ra cô bé khả ái nhưng ướt nhẹp này. Và vì tôi biết nước mắt đàn bà là chất cường toan cực mạnh, có thể làm chảy những trái tim chai đá nhất, tôi phú lỉnh. Phú lỉnh để chờ cơ hội "phục thù". Cũng không lâu đâu, đến ngày lãnh lương, tôi sẽ cho nàng biết tay.

Nhớ lại mà thương cho cái kiếp học trò nghèo mạt rệp, đồng tiền sáng lãnh chiều tiêu. Có muốn làm cái chi cũng phải đợi ngày phát lương. Thứ năm hôm đó, vừa có tiền là tôi bận rộn đi mua bong bóng. Bong bóng thường rẻ hơn nên tôi mua chẵn chục. Còn bong bóng loại mylar, tôi mua dăm ba cái. Tôi đem về phòng, dùng bút lông vẽ. Cái thì tôi vẽ tên tôi và nàng lồng lên nhau, cái thì tôi viết "Anh yêu em", cái thì tôi vẽ một cặp trai gái hôn nhau với tên tắt của nàng và tôi ở dưới. Ôi thôi đủ kiểu. Năm giờ tôi hẹn nàng gặp tôi ở trước thư viện trường nàng. Một giờ tôi đã lui cui treo bong bóng, dán bích chương đầy trước cửa thư viện. Những cái bích chương ấy, tôi đã sửa soạn từ mấy ngày trước, do chính tay tôi vẽ cũng có mà in ra từ máy điện toán cũng có nữa.

Đáng tiếc là lúc bốn giờ tôi có tiết học, nên mặc dù tôi đã trở lại chỗ hẹn sớm cả mười phút, tôi cũng không được thấy phản ứng của nàng khi nàng mới nhìn thấy cái "phòng" triển lãm tình yêu của tôi. Tôi đến chỉ kịp xem nàng đang thu dọn chiến trường. Thấy tôi, nàng cuống quýt bảo:

- Anh làm ơn giúp em một tay, gỡ mấy cái trên kia. Em với không tới.

Dĩ nhiên là nàng với không tới vì mấy cái bảng đó, tôi đã cố tình trèo lên cây để treo.

Tôi giễu nàng:

- Ối chà, em làm gì thế ? Anh loay hoay mãi mới treo xong. Được có mấy tiếng thì em lại đòi gỡ xuống rồi. Để thêm mấy tiếng nữa nhé ?

- Trời ơi, vậy anh treo từ bao giờ ?

- Hihihi, từ lúc một giờ. Đến bây giờ thì chắc cả trường em đều thấy rồi. Em có gỡ xuống cũng vậy thôi.

Khuôn mặt nàng đang hồng lại càng hồng thêm. Nàng cằn nhằn tôi một cách rất ư là... không cằn nhằn, rất ư là đáng yêu.

- Anh kỳ quá hà !

Đưa nàng về nhà, tôi nhăn nhở hỏi:

- Bây giờ thì em còn bắt anh nói yêu em nữa không ?

Nàng không nói gì, nhưng tôi thấy mặt nàng chợt thoáng giận khi nàng kịp nhớ ra câu chuyện hôm trước. Chao ôi ! Lời đã nói ra thì ngựa "tứ bách" Corvette (400 horsepower) cũng không làm sao theo kịp. Thằng tôi ngu ơi là ngu. Tranh thắng với người yêu thì có thắng cũng thành thua, vì từ đó, quả nhiên tôi ít được nghe nàng nói "Em yêu anh".


oOo



Đó, em coi cái tật cứng đầu có ngu xuẩn, có tai hại chưa ?

Bây giờ, lăn lộn lâu năm với đời, cái trán tôi đã xẹp xuống nhiều lắm. Em thấy không ? Tôi đã biết nhường em khi mình cãi nhau. Khi em khóc, tôi biết dùng áo tôi làm khăn mù soa cho em lau nước mắt, biết vỗ về em bằng lời thơ vụng dại của lòng mình

Bé ơi úp mặt ngực anh đây
Để muộn phiền vơi đẫm áo này
Hơi ấm lòng anh dâng sưởi bé
Vòng tay che chở bé đêm nay

Tôi biết ru em bằng những bài ca tụng tình yêu quê hương của Duy Khánh, những bản tình ca đôi lứa của Phạm Duy. Và khi em nói yêu tôi, tôi biết cầm lấy tay em, âu yếm nhìn em mà nói với tất cả chân thành:

- Cám ơn em.

Vâng, tôi cám ơn em đã cho tôi một món quà vô giá, một thứ ngọc bích Biện Hoà. Tình yêu của em, tôi sẽ nâng niu, cho dù ai muốn đổi cả một trường phú quý, tôi cũng chẳng màng. Nếu em có ngờ tôi, hãy lấy lòng em để nhìn vào mắt tôi. Khi em thấy được trong ánh mắt rực rỡ niềm vui của tôi có ánh hồng ấm áp trìu mến của buổi bình minh, có bóng cây tươi mát ngọt ngào giữa lúc trưa hè, có muôn mầu êm dịu nhẹ nhàng của lúc hoàng hôn, có thanh bình tinh khiết của đêm trăng rằm, thì tự khắc em sẽ hiểu.

Nên đừng bắt tôi nói câu ấy em nhé, vì cho đến bây giờ, tôi vẫn thích "để dành" những lời nặng trĩu yêu thuơng. Trán tôi vẫn còn hơi dô tí ti đó mà.

Doãn Mạnh Tiến

Một Nghề Sáng Giá

Tôi du học Tây về! Câu đơn giản thế nhưng lanh lảnh như tiếng chuông mới đúc. Chữ " Tây" không chính xác về địa lý nhưng chuẩn xác về sự phân chia cấp bậc cũng như cái nhìn trong xã hội. Có điều tôi chỉ đi " Tây" Nga về chứ không " Tây" Mỹ, " Tây" Úc hay " Tây" Đức, Pháp... Cái " thiệt thòi" hôm nay là " ưu đãi" trước kia của Bộ đại học dành cho tôi. Chả gì nước Nga cũng " ông anh cả" của Việt Nam - " nước cộng hòa thứ 16 của Liên xô" .
Tôi là kỹ sư kinh tế ở Nga về. Nghe không vang như câu trên. Phải thôi. Kinh tế Nga chục năm nay lu mu, chả ra " kế hoạch quốc gia" , chả ra " kinh tế thị trường" . Sách vở là phương tiện cãi nhau của các nhà " đổi mới" . Năm năm đèn sách nhét thứ đó vào đầu không ngớ ngẩn là may.
Tôi mang chiếc bằng xinh xinh đi xin việc cùng lời quảng cáo khiêm tốn như trên. Đầu tiên tôi mua báo, nghiên cứu " tuyển người" , đánh dấu xanh đỏ những chỗ " khả thi" . Tôi bắt đầu gọi điện. Nhà có điện thoại lợi đủ đường. Tuy nhiên, mỗi lần " bắt" được giọng đầu dây kia, hiện tượng này chiếm 30% số lần gọi, mẹ và bà chị dâu đều " ý tứ" xem đồng hồ. Nào tôi có ham " nấu cháo điện thoại" mà tại phí điện thoại nó " cấu" vào đồng lương gớm quá. Tôi học kinh tế ở Nga, tưởng " kinh tế" cho gia đình mấy năm sinh viên. Nào đâu đúng thời kỳ khó khăn. Việt Nam qua thời " tem phiếu" từ lâu mà nước Nga bắt đầu " talon" *. Tháng 2 kg đường, 7 lạng thịt, 2 chai vôtka là tiêu chuẩn sinh viên! " Talon" đường và rượu coi như đủ còn 7 lạng thịt thiếu nặng. Ra chợ, có đấy, nhưng " đời sinh viên lấy đâu ra tiền" . Chẳng nhẽ để con gái chết đói ở đất nước Xã hội chủ nghĩa, mẹ tôi đành tiếp viện. Năm năm " hạch toán" ra chắc cũng lõm của mẹ tôi ối. Biết thân, biết phận nên về nước tôi không dám làm mình, làm mẩy " quen ở Tây" thế nọ, thế kia. Chỉ duy nhất cái " màn tra tấn" 6 giờ sáng bị khua bằng đủ âm thanh " nội" " ngoại" là tôi " choáng" hẳn. " Nội" là tiếng mẹ tôi mở cửa sắt đi tập thể dục, chị dâu tranh thủ sáng có nước bơm giặt giũ. Xô chậu " duyệt binh" xủng xoảng ra trữ nước dùng trong ngày. " Ngoại" là tiếng rao bán. Từ " mỳ nóng" , " bánh cuốn" , " xôi" các loại đến gạo tẻ, gạo nếp " tên tuổi" nghe như tiếng Thổ, hoặc mắm muối kèm mùi khó tả... Rao the thé, ồ ồ có, ai oán, uốn éo cũng có. Điên nhất là ông mãnh " mỳ nóng" sáng nào cũng chính xác như đồng hồ Tây. Nó đứng dưới cửa sổ tôi gào " mì nóng" lanh lỏi, kết thúc bằng chữ " ròn" . Chao ôi, khâm phục độ nẩy của lưỡi nó. Đồ rằng, cả miền Bắc có mình nó biết phát âm chữ R!
Không trốn được những âm thanh đó, tôi chúi đầu vào đống chăn chịu đựng qua " cơn bĩ cực" . Nhưng giờ " thái lai" đến là lúc mẹ tôi đi tập thể dục về. Nhìn con gái còn " giương đò" , bà lại ca " dậy sớm có lợi cho sức khỏe" là lá la... Thôi thà dậy béng cho xong.
Chuyện xin việc không thể gọi điện thoại. Tôi đã qua bài học thứ nhất khi tổng kết thông tin qua điện thoại là con số 0 tròn trĩnh. Mấy người trực điện thoại hoặc nhấm nhẳng hoặc chẳng trả lời câu nào cho ra hồn.
Tôi mò tới các " Trung tâm giới thiệu việc làm" và thấy ngay mình là con ngớ ngẩn. Vừa lộ " tốt nghiệp ở Nga về" , họ hỏi ngay:
" Sao không ở lại, về làm gì?"
" Làm việc."
" Việc gì mà làm?"
Tôi trố mắt nhìn họ, thầm điểm lại xem mình có vào nhầm chỗ.
" Ở đây không giới thiệu việc à? Sao ngoài kia cả chục người làm hồ sơ?"
" Họ làm hồ sơ xin đi ra nước ngoài lao động, làm ăn. Đi Hàn quốc, Libi, Iran... có cả đi Nga đấy. Cô có muốn... "
Tôi xua tay cám ơn rồi chuồn thẳng ra cổng.
Bài học thứ hai. Tránh lai vãng ở " Trung tâm giới thiệu mờ ám" . Không khéo bị lẫn vào hàng ngũ các cô gái " sính" chồng Đài Loan thì hỏng.
Sau hai bài học, 50% nhiệt tình " phục vụ đất nước" đã đi tong. Tôi chuyển sang " xu hướng" nghe ngóng, suy xét chứ không đâm đầu làm theo báo nữa. Người thân mong ngóng tôi trở về sau những năm xa cách, qua 5 tháng, tình cảm cũng vơi đi. Đến mẹ tôi còn sốt ruột khi thấy con gái thất nghiệp nằm chỏng gọng ở nhà. Bà rỉ rả nhắc " nhàn cư vi rồi đấy con ạ" . Thì đúng quá rồi, nhàn đến " rách việc" đây. Sáng chiều cơm nước. Từ ngày tôi về, tự dưng cô " Osin" được về quê. Chả hiểu bà chị dâu tôi tốt nghiệp khoa kinh tế ở đâu mà giỏi tính thế. Tôi hậm hực cũng chịu, nhăn nhó mẹ tôi lại chả " hát" nửa tiếng đến ong thủ mất. Bạn bè, đứa có việc đi làm cả ngày, đứa chưa có việc lại có người yêu hay chồng con. Tôi trơ thổ địa, chẳng nhẽ trách ông Trời. May có dăm ba đứa cũng dạng " lơ lửng giữa trời" như tôi. Tối tối tôi xách xe chạy qua nhà bọn chúng tán gẫu, chia xẻ kinh nghiệm xin việc và " mánh khóe sống đời" cho nhau. Tôi hiểu giờ người ta xin việc là xin vào chỗ có " mầu" . " Mầu" là bổng lộc. Khoản này không thể có ngay khi mới làm mà phải nhích lên " lão làng" . Không phải ai cũng nhấp nhổm lên được. Chỉ những " tinh hoa" thôi. " Mầu" nữa là " mầu đi Tây" theo suất " nâng cao" . Tụi bạn tôi may mắn có việc thấy chí tiến thủ của chúng nhuộm sắc " hướng ngoại" . Chúng cong mông chạy theo các lớp tiếng Anh, tiếng Pháp như lũ " sống gấp" , xem ngoại ngữ là cái " cánh" mang chúng ra bầu trời tự do. Sau mấy tháng " thất nghiệp" từ một con " Nga ngố" tôi kết hợp tính nói thẳng, nói thật của Tây với ngoa ngoắt của mấy bà hàng rau, hàng thịt mà mỗi ngày hai lần tôi nhẵn mặt thành một dạng " củ chuối" mà mẹ tôi không chấp nhận được. Không chấp nhận thì cũng chịu thôi. Bạn bè bầu tôi là " huấn luyện viên phụ huynh" tầm cỡ. Từ chỗ mẹ tôi muốn lấy lại hình ảnh đứa con gái út thùy mị của trước ngày đi Tây, chuyển sang tôi " biến" bà phải chấp nhận triết lý " cái gì cũng có thể với con gái mình" , thậm chí là cướp biển! Một kết quả đôi bên cùng có lợi. Tôi được tự do, mẹ tôi khỏi thấp thỏm khi khuya khoắt. Nhưng còn một cái lợi nữa mà tôi chưa lường được. Tình trạng " bụi đời" của tôi khủng bố tinh thần cả nhà nên họ huy động toàn bộ các mối quen biết họ hàng từ " bắn đại bác" đến " phi dao" để tìm việc cho tôi. Vào một bữa cơm chiều, ông anh trai yêu quý của tôi thông báo một tin quan trọng rằng có ông giám đốc, bạn cũ hồi phổ thông, dù mới tìm lại nhưng có nhiều duyên nợ với ông anh tôi, nhận tôi vào công ty ông ta. Mà đó là công ty nhà nước trăm phần trăm nhé, thuộc Bộ khoa học và Công nghệ môi trường cơ mà. Cả nhà xôn xao, khởi sắc. Tôi cũng hí hửng như sắp thành " ông nọ, bà kia" . Thêm bài học thứ ba. Muốn xin được việc phải quen biết. Tổng quát, muốn được bất kỳ việc gì đều phải có " quan hệ" . Cứ kiểm chứng bằng những buổi tôi " đánh quả" nhà bạn bè là biết. Chị dâu hay mẹ tôi đi chợ, y rằng bọn bán hàng nó giúi cho rau già, bí xơ, thịt dai nhách. Không có " quan hệ khách hàng thường xuyên" tôi xây dựng mấy tháng nay làm sao mà có đồ ăn ngon. Tôi giờ ra chợ mua cả tuần không trả tiền là cứ vô tư. Quen thế, không chừng khi nào cưới, tôi phát đại cho chúng thiếp mời cũng chẳng có gì muối mặt hết!
Ông anh giục tôi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo xin giấy chứng nhận tốt nghiệp làm hồ sơ. Tôi ngoạc mồm cãi " bằng sờ sờ ra còn chứng nhận, chứng nhiếc gì" liền bị cả nhà xúm vào sỉ vả ác liệt. Mỗi người một giọng lên lớp hòng dẹp cái thói " ngông nghênh" của tôi.
Mười giờ sáng tôi có mặt ở cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phải công nhận " mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" có khác. Nhà cửa của Bộ đàng hoàng, khang trang. Khu vườn rộng thênh thang giữa thủ đô tấc đất, tấc vàng nhìn mà sướng mắt. Theo hướng chỉ của bảo vệ, tôi tiến đến khu nhà 5 tầng. Tôi bắt đầu một chuỗi những " xin lỗi chú cho hỏi" , " xin lỗi cô cho biết" và cuộc " việt dã" theo cầu thang. Giờ tôi mới biết người Việt Nam nào có tính " nhúng mũi" vào chuyện người khác. Tất cả các câu hỏi của tôi về phòng cần tìm đều được trả lời u ơ " không rõ" , " hình như" , " tầng ba hay tầng hai gì đó" . Tôi khùng người vì leo thang nhưng ngộ ra vì sao mẹ tôi về hưu rồi còn tập chạy, có lẽ thói quen chăng? Cuối cùng tôi cũng mò ra phòng phụ trách lưu học sinh tốt nghiệp về nước. Tôi gõ cửa dõng dạc, bước vào sau tiếng hừm hừm thay tiếng mời. Tất nhiên tôi chào lịch sự như Tây dù chỉ nhận lại chiếc gật hay lay động cơ cổ.
" Cô cần gì?"
Một trong hai người đàn ông đang đọc báo chậm rãi hất hàm hỏi.
" Thưa, cháu xin chứng nhận tốt nghiệp để làm hồ sơ xin việc."
" Về bao giờ?"
" Dạ, gần một năm."
" Sao giờ mới lên đây?"
" Dạ... chẳng ai bảo cháu phải lên ngay cả."
" Cô này vô tổ chức, nguyên tắc về nước phải báo cáo ngay, còn chờ ai bảo."
Tôi bị mắng đã " ngứa tai" nhưng bài học cả nhà dạy hôm qua còn nguyên nên tôi im như hến. Tôi rút bằng, sổ điểm cùng giấy sứ quán cấp trước khi về nước trình cho ông ta.
Ông ta cầm tấm bằng, không đọc mà lật qua, lật lại. Lật chán ông quay nhìn tôi. Nhìn như đánh giá mặt hàng, không khác gì tôi chọn cá ngoài chợ. Thậm chí còn hơi bĩu môi. Tôi thầm nghĩ, ông này mua cá mà " thể hiện" thế, bọn hàng cá chửi cho tanh người. Nghĩ gì thì nghĩ tôi vẫn làm mặt khép nép. Chợt ông ta ném bẹt cả bằng lẫn giấy tờ của tôi xuống bàn, hỏi gọn lỏn:
" Học gì? Ở đâu?"
" Dạ kinh tế, trường Plekhanov ở Matxcơva."
" Học từ năm nào? Tốt nghiệp năm nào?"
" Dạ... những điều đó có cả trong bằng rồi, sao chú còn hỏi."
" Tôi hỏi là việc của tôi. Cô không trả lời được phải không?"
Ông ta ngẩng nhìn tôi mãn nguyện. Chả hiểu ông ta phát minh được cái quái gì từ mấy câu hỏi trẻ con đó mà mắt ông chợt ánh lên ranh mãnh.
" Cô học hành cái gì. Sang chỉ lo đi buôn, bằng thì mua."
Tôi há hốc mồm còn chưa tin ông ta đang " vu cáo" mình. Ông ta dồn tiếp:
" Cô nói tôi nghe, bằng này cô mua bao nhiêu?"
Đến nước này tôi chịu hết nổi. Bao kinh nghiệm cãi nhau với mấy bà ngoài chợ chợt loang loáng trở về. Tôi vênh mặt không kém ông ta, mắt cũng " đèn pha ôtô" xoáy áp đảo:
" Chú nói bằng này giả? Chú nói bằng này mua? Nghĩa là bảng điểm cũng giả, giấy chứng nhận của chú trưởng phòng Lưu học sinh Matxcơva cũng mua nốt. Vậy chú làm ơn ghi cho cháu mấy chữ vào đây. Tiện ký và đóng dấu luôn cho cháu. " Nói có sách, mách có chứng" , mai kia có người sang Matxcova, cháu kiểm chứng lời chú.
Vừa nói tôi vừa rút xoạch tờ giấy trong túi và cây bút đặt trước mặt ông ta. Ông ta đứng bật dậy, há hốc mồm chẳng khác gì tôi lúc trước, lúng búng:
" Cô... cô ăn nói với tôi thế hả. Giọng lưỡi con buôn..."
" Chú nhìn người như thần. Cháu học kinh tế chú nói đi buôn. Bằng chú lật qua cái mà biết giả, thật kém gì người buôn " xanh" ..."
Ông ta đập bàn đánh rầm:
" Cô tưởng đây là cái chợ mà cô phát biểu vô tổ chức... cô biết đây là đâu không?"
Tôi suýt nữa cũng học bà bán thịt bò kèm 70% thịt trâu ngoài chợ chống tay vô hông, " quạc" lại:
" Cháu biết... thì chỉ có chợ mới nói " giả, thật, giá bao nhiêu" chứ."
Mặt ông ta đỏ rần như người có triệu chứng huyết áp " quá tải" . Tôi trót " cưỡi lưng hổ" , tự biết không đường lui. Cuộc đấu khẩu sẽ đến đâu nếu không có tiếng cười của người đàn ông thứ hai trong phòng. Cả hai " đối thủ" cùng dồn mắt sang ông ta. Người đàn ông chậm rãi tới bên tôi. Nét mặt hòa nhã nhưng mắt giấu vẻ khoái chí sau cặp kính.
" Cháu nói với chú Đạo thế là không được rồi. Chú Đạo người lớn chẳng chấp cháu ' trẻ người, non dạ' làm gì. Đứa nào mới đi Tây về chẳng thế. Đưa bộ copy đây chú vào sổ. Chiều mai lên lấy giấy ở phòng 32. Thôi, chưa xin lỗi chú Đạo đi còn chờ gì?"
Nghe vậy là tôi đủ ' thông minh' hiểu ý của ông. Một trọng tài kinh nghiệm thổi còi đúng lúc nhắc hai cầu thủ ' fair play' ! Tôi chuyển tần số lời nói:
" Chú Đạo bỏ qua cho cháu mấy lời láo lếu vừa rồi. Ở nhà cháu vẫn bị mẹ mắng suốt vì tội cãi bướng mà."
' Chú Đạo' kia mặt vẫn đỏ nhưng lẽ nào không ' miễn cưỡng bắt tay đối thủ' . Ông ta lầm lỳ chẳng ra gật, ra lắc ngồi xuống cầm tờ báo đọc tiếp. Tôi lại gần người đàn ông mang kính để ký vào sổ, khẽ nói nhỏ:
" Cháu cám ơn chú nhiều."
Ông ta mỉm cười với tôi:
" Molodec!" (Cừ lắm!)
Bữa cơm chiều, tôi ' tường thuật' lại chuyện ' chú Đạo' . Chị dâu tôi khoái bất ngờ tới mức trước mặt mẹ chồng dám vỗ đùi đôm đốp. Tôi ngờ rằng bà này cũng từng bị cái Bộ kia ' đì' rồi nên giờ được ' trả thù quá khứ' . Mẹ và anh tôi nhăn nhó. Mãi sau mẹ mới chép miệng:
" Mày thật chả khác bố mày ngày xưa."
Bố tôi ra đi sớm khi tôi mới 10 tuổi. Tôi chẳng còn nhớ nhiều về ông. Nhưng tôi tin, nếu ông còn, giờ ông sẽ xoa đầu con gái rượu chứ chẳng mắng tôi đâu.
Đầu tuần, theo lời ông giám đốc tôi đến cơ quan làm việc. Không biết nếu tôi đi làm dâu mẹ tôi có lo như tối hôm trước ngày tôi đi làm. Bà đi ra nhắc, đi vào dặn. Thiếu nước bắt tôi nhắc lại lời bà. Anh trai tôi răn đe:
" Mày làm thế nào cho tao còn gặp lại được bạn bè. Bớt mồm đi. Người ta hỏi, trả lời cho ngoan ngoãn đừng có như con lỏi con. Lớn rồi, nghe người ta hỏi phải biết ý họ mà trả lời."
Con bạn thân gọi điện đọc ' lesson ngày đầu tiên tới cơ quan' cho tôi lĩnh hội. Nào bánh kẹo, thuốc lá, trà ra sao, nào chào ai chú, ai anh, ai cô, ai chị... Đặc biệt khoảng ' ngoại hình' rất quan trọng. Theo lời nó:
" Mặc đầm cho nữ tính. Đầm dài bớt ganh ghét của đồng nghiệp nữ nhưng mất cổ động viên nam. Độ ngắn của đầm tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa."
Tôi lục tung valy tìm ra được chiếc đầm xanh. Màu hơi ngớ ngẩn nhưng có vẻ nữ tính. Độ dài của nó vừa khéo để không sexy cái đầu gối củ lạc, lại chứng tỏ tính kín đáo của bằng Đại học.
Tôi đi sớm, lởn vởn ở sân chờ phòng số 4 có người. Theo lời ông giám đốc, tôi xông thẳng tới ' làm quen' . Ở nhà mẹ vẫn khen tôi có đức ' trơ tráo' trước chỗ lạ. Tôi còn nhiễm tính ' tự tin mù quáng' của nguời Nga nên chả có gì bối rối khi bước vào.
" Chào các chị, các anh" Tôi hơi nghiêng người và nở nụ cười bài bản - " Em là Thu, anh Bình giám đốc nhận em vào làm công ty mình từ hôm nay."
Năm người, định vị năm bàn quay nhìn tôi. Một giây, hai giây... năm giây. Tôi chợt thấy nụ cười trên môi mình vô duyên trước 10 chiếc mắt dọi vào. Từ hôm về nước, tôi xem nhiều phim Việt Nam và không chịu được vẻ vô cảm của các ' sao' điện ảnh. Giá họ học được vẻ mặt của năm người đang chiếu tướng tôi đây chắc nền điện ảnh Việt Nam sẽ phất kém gì Holywood. Sang giây thứ sáu, muốn hay không nụ cười của tôi cũng không le lói hơn được nữa. Tôi đứng đực ra chờ phản hồi nhưng hình như cả năm người cố làm vẻ nghễnh ngãng. Túi quà ' lót đường' của tôi nặng ịch ' mang về cho lũ bạn đánh chén còn hơn cho bọn câm điếc này' . Tôi bắt đầu cáu, thầm chửi cái số mình đi đâu cũng không đầu xuôi, đuôi lọt.
" Sao tôi chả nghe, chả biết gì nhỉ?"
Một giọng nam chất kim vang lên phá tan bầu không khí ' mặc niệm' .
" Ông Bình làm những chuyện lạ đời. Đùng đùng cái gì cũng theo ý mình, hay dở thế nào cho người khác đổ vỏ." Giọng nữ ồ ồ cằn nhằn.
" Em có nghe loáng thoáng hôm lên phòng giám đốc" giọng cô gái khá trẻ ngồi bàn gần cửa - " Anh Bình nói nhận người về vì sắp tới công ty mình ký hợp đồng với công ty thiết bị y học của Nga."
" Ôi dào, viện này thiếu gì kỹ sư học Nga về. Toàn thằng chẳng làm được việc gì lại còn nhận thêm."
Giọng kim vừa nẫy nhưng lần này tôi đã phát hiện ra của một người đàn ông ngồi góc phải. Dù cửa sổ mang ánh sáng ban mai vào nhưng khuôn mặt ông vẫn không vì thế bớt già nua và nhăn nhó như quả táo Tàu. Kinh nhất là cặp mắt kẻ chỉ, khó đăm đăm đang tranh thủ ' miệt thị' tôi.
Tôi vẫn đứng vì chả có ai định mời mình ngồi xuống chịu trận. May hôm nay tôi mặc chiếc đầm xanh. Tuy ngớ ngẩn nhưng theo các nhà ' tâm lý học' , màu sắc có tác dụng giải tỏa. Màu xanh lờ lợ đó như lá chuối đặt trên thùng nước đang sánh, qua sánh lại, cản con sóng ngầm âm ỉ. Nhưng khổ nỗi ' chiếc lá chuối' này không mảy may tác dụng ' tâm lý' ông giọng kim. Ông chán bâng quơ, chuyển sang chĩa mũi dùi vào tôi:
" Ai bảo cô tới đây?"
Kinh nghiệm ở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dạy tôi chẳng nên ngạc nhiên trước câu hỏi thừa. Ngoan ngoãn như lời ông anh dặn, tôi thỏ thẻ:
" Dạ thưa, anh Bình dặn sáng nay em tới trước làm quen với các anh chị. Anh Bình sẽ tới muộn một chút ạ."
Tình hình nghe ra chẳng sáng sủa hơn sau câu trả lời nhún nhường của tôi. Chỉ có cô gái gần cửa lịch sự hơn cả, bước tới kéo ghế mời tôi ngồi. Tôi cám ơn cô đầy cảm kích. Tôi nghĩ ' tội vạ đâu ông Bình chịu, bảo đến làm thì đến, đã đến thì đúng chỉ dẫn của con bạn mà thực hiện' . Tôi liếc tìm bộ ấm pha trà, lấy mấy gói bánh kẹo, thuốc lá ra đặt trên bàn, mạnh dạn hỏi cô gái còn đang đứng gần tôi:
" Cho mình mượn mấy chiếc đĩa được không?"
" Đồng minh trong hy vọng" của tôi nhanh nhẹn mở tủ lấy đồ và giúp tôi. Tôi thầm cám ơn Trời. Dù thái độ của tôi giờ không còn tự tin như trước nhưng tôi vẫn đủ ' khả năng' bê ra từng bàn mời các vị đang chiễm chệ đọc báo và bình luận chuyện không đâu. Tất nhiên họ uống trà. Tất nhiên họ gặm nhấm bánh kẹo và coi sự phục vụ của tôi là ' tất nhiên' khỏi cần cảm ơn. Còn tôi ' tất nhiên' phải quên thói lịch sự của Tây mà coi đó là văn hóa Việt Nam!
Người đàn ông ngồi gần cửa sổ chợt cắt ngang câu chuyện về giá xe máy Thái lan đang xuống, hỏi tôi:
" Em học ngành gì bên Nga?"
" Dạ em học Kinh tế."
" Lại Kinh tế" giọng kim lần này hơi méo có lẽ do chiếc kẹo Hải châu còn mắc trong răng - " Đâu cũng nhan nhản kỹ sư kinh tế. Mang tiếng học hành mà chả biết ' đếch' gì. Làm hợp đồng viết ngu bỏ mẹ. Cháu ông Viện phó cũng học Kinh tế vừa vào Viện này, con bà Hoài phòng ' Công nghệ nguyên tử' cũng đang làm hợp đồng bên đó."
Tôi khẽ nhăn mặt. ' Lại gặp bạn ' chú Đạo' rồi. Giờ mà ông chuyển sang hỏi giá bằng Đại học, mình phải hô bao nhiêu đây?"
" Cô ở đâu đến đây?"
Chiếc kẹo đã chui tọt vào họng nên câu hỏi vang lên lanh lảnh. Một câu hỏi đơn giản như bài học đầu tiên của chương trình học ngoại ngữ, ông có hỏi bằng tiếng Anh tôi vẫn trả lời vô tư.
" Em ở Hà Nội ạ."
Những khuôn mặt ' đầy ấn tượng' hiện ra. Cáu kỉnh là của ông giọng kim:
" Ai chả biết Hà Nội. Quen ai mà tới đây?"
" Á... " - hơi ngượng vì sự ' chậm hiểu' nhưng tôi chữa ngay " Dạ, em chỉ quen anh Bình giám đốc thôi ạ."
" Quen mỗi ông Bình mà xin được vào Viện lớn thế này." Giọng ồ ồ thắc mắc kèm theo cái nhìn nghi vấn rất ' nữ tính' .
Tôi còn quen thêm được ai từ ngày về nước ngoài mấy bà buôn ngoài chợ.
" Thế cô con ai?"
Cái hất hàm đầy tính ' khảo sát' của ông giọng kim chĩa vào tôi. Tất nhiên lần này tôi đã ' thấu' câu hỏi. Ông anh tôi chả dặn phải xem ý người ta mà trả lời là gì. Tôi dõng dạc:
" Dạ em không con ai cả ạ."
Có bịt tai tôi cũng nghe tiếng cô gái ' đồng minh' cười váng lên. Tiếng ho khục khục dấu tiếng cười ' thiên nhiên' là của ông ngồi kế cửa sổ, một anh chàng trung niên từ đầu chưa nói gì chợt rút kính lau lấy, lau để. Chỉ còn lại hai khuôn mặt ' đằng đằng' của hai chất giọng ' ngược đời' là thộn ra. Giọng kim rít lên:
" Cô học đâu kiểu nói trêu ngươi thế hả? Cô biết tôi là ai không?"
Tôi nghệt mặt ra chả hiểu mình có tội gì. Tôi quay sang ' đồng minh' cầu cứu nhưng cô còn mải cười đến mức không nhịn được phải chạy bắn ra hành lang, vội vàng lao ngay vào ông Bình đang bước tới. Cô khẽ ' Ối' , ngượng nghịu. Bốn người còn lại kéo ghế đứng lên chào đồng loạt. Chỉ có tôi đang ngẩn ngơ vì ' quả mắng' nên ngồi tại chỗ khẽ lúng búng chào.
" Chào mọi người!" Giọng sang sảng đúng chất Sếp. " Làm quen vui quá. Nhân viên mới có quà cho anh em hả. Được đấy."
Quay sang bên, ông giám đốc nói:
" Anh Trung tổ chức và chị kế toán lên phòng tôi có việc cần bàn nhé!"
Hai người đứng dậy theo ông lên phòng. Tôi toát mồ hôi. Thôi xong. Ông anh đã dặn " khéo lời với ông trưởng phòng tổ chức mới hòng được vào biên chế" . Loạng quạng thế nào tôi " trêu ngươi" ông ta rồi. Vụ này khéo đứt!
Ngày sau, tôi đến, chẳng có chỗ riêng của mình trong phòng, chẳng có việc cụ thể. Giám đốc bảo làm quen công việc nhưng có ai nói năng gì với tôi đâu. Cô ' đồng minh' trở nên giữ kẽ. Mặt ai cũng như bức tường. Cảm tưởng tôi bị tẩy chay. Tôi ra hành lang nghe chim sẻ chíu chít trên nhánh xà cừ, buồn bã như mình lạc giữa đảo hoang. Vài ngày sau, giám đốc chỉ tôi phòng nhỏ, kêu tôi dọn dẹp, kê bàn vào lấy chỗ làm việc. Sáng 8 giờ đi, trưa cơm nhà xong phóng tới công ty. Việc duy nhất là ngồi và ngó qua cửa sổ. ' 8 giờ vàng ngọc' thoải mái tiêu cho chuyện. Chán, tôi lò dò xuống phố thăm tình hình Model của Hà nội.
Từ ngày tôi đi làm, dù tập sự không lương, mẹ yên lòng hẳn. Tôi từ chỗ mang tiếng thất nghiệp chuyển sang ' thất nghiệp' toàn phần. Hiếm hoi gặp bọn bạn chẳng biết kể chuyện gì. Chẳng lẽ kể chuyện ' năm anh em trên chiếc xe tăng' hở ra là nã đạn vào tôi. Hay kể chuyện ông Sếp sáng đảo qua công ty vài phút là biến. Thỉnh thoảng, ông định vị trong phòng vài tiếng thì toàn thấy ' họp... kín' . Có lần không nén được tò mò, tôi ghé tai nghe trộm. Hoá ra các bố chơi ' tá lả' . Tôi chán ngấy vì đóng vai người thừa. Vừa ho hoe tính chuyện xin thử chỗ khác đã bị ông anh dạy thế nào là đức kiên tâm ' trường kỳ kháng chiến' . Tiền tiêu do mẹ tài trợ đủ ăn sáng, bơm xe, tình rỗng tuyếch, công việc đuổi ruồi. Tôi tù túng trong mọi ràng buộc từ nhà đến công ty. Mẹ tôi nhắc khéo chuyện ' gia đình' . Tôi tỉnh queo:
" Mẹ chi tiền. Con ra chợ coi thằng nào ' sạch nước cản' mua về làm chồng."
Bà chán chả thèm nói.
Tôi buồn, tôi nhớ nước Nga. Khi ở đó tôi chỉ nhìn thấy những điều đen tối mà chê nhưng khi về rồi tôi biết tôi thiếu nó. Cho dù ngày đó có bơ vơ, có khó khăn, khắc nghiệt nhưng tất cả thật rõ rằng để mình phải vượt qua. Còn sống nơi quê hương sao tôi lạc lõng. Ai giúp tôi mài bớt những sù sì, góc cạnh để có thể lăn tròn trong xã hội này?
Tối thứ Bảy tôi ngồi nhà xem vở tuồng ' tân cổ giao duyên' , ngoan như bà góa thủ tiết với chồng. Chuông điện thoại kêu, tôi uể oải nhấc.
" Thu hả?"
" Thu đây, ai đó?"
" Còn nhớ Thắng ' mập' không? Tao đây."
" Ôi Thắng, mày đang ở đâu vậy?" Tôi reo lên khi nhận ra thằng bạn thân từ ngày học phổ thông đến suốt năm tháng ở Nga.
" Matxcơva chứ ở đâu. Mày thế nào, nghe tụi nó bảo đi làm rồi hả?"
" Làm khỉ gì, chán muốn bỏ. Tao đã thấy lời mày khuyên ở lại là ' chân lý' ."
" Thế mày còn thích đến với ' chân lý' không?"
" Thích cũng phải qua ối ' cửa' mới tới được ' chân lý' . Còn mày thế nào?"
" Tao gọi về hỏi mày chịu qua giúp tao phụ trách phần kế toán cho công ty của tao ở Matxcơva không? Đồng ý tao gửi giấy tờ về làm hộ chiếu. Tao điểm ra chỉ mày đủ khả năng, đúng nghề và tính ' bà la sát' của mày mới trị được bọn trong công ty. Nghĩ sao?"
Tôi bất ngờ chẳng nói được lời nào. Hơn một năm qua, tôi đã biết, ở Việt Nam ' nghề' sáng giá nhất là ' nghề đi Tây' , ' nghề xuất ngoại' dù ngắn hạn, dài hạn. Những ai chê ' nghề' này chắc chắn là Sếp. Mà Sếp chỉ chê ' dài hạn' vì đi lâu dễ ' vênh cạ' chứ ' ngắn hạn' Sếp OK đầu tiên.
" Ê, chán nước Nga chưa mà im như thóc vậy?"
" Không... tao đang tính" - tôi lúng túng không biết nên nói kiểu gì để hợp ' phong cách người Hà nội' ' mẹ tao lo đi nữa sẽ ' ê sắc ế" ...
" À... mày định lấy chồng kiểu gì tao không biết nhưng nếu định lấy thằng yêu mày thì lấy tao đi. Tao yêu mày lâu rồi."
Lần này tôi ' cấm khẩu' hoàn toàn. Thắng chợt chuyển giọng:
" Nói thật đấy."
Trời ạ, mẹ tôi nói cấm có sai ' Ngưu tầm ngưa, báng bổ như mày, chỉ có thằng ngang ngửa mới thèm yêu' . Dù ' củ chuối' cỡ nào tôi cũng không thể tưởng tượng ra được màn tỏ tình ' mày' ' tao' qua điện thoại quốc tế!
" Thu ơi, suy nghĩ đến trưa mai nhé!" Thắng cười hì hì trong máy " thời Edison chỉ cho suy nghĩ 5 phút thôi mà. Nhe sutru, 100% xeriozno! Do zavtra! (không đùa đâu, 100% nghiêm túc. Hẹn mai!)"
Máy bay cất cánh, mảnh đất quê hương chao nghiêng. Dòng sông Hồng kia rồi, quanh năm đỏ đậm phù sa. Hà Nội li ti, nhấp nhô mái ngói. Tôi lại ra đi lần nữa. Chút nhơ nhớ, bâng khuâng về Hà Nội, về mẹ.
Giọng cô chiêu đãi viên Nga nhắc người ngồi cạnh đeo dây an toàn nghe quen như mới hôm qua. Nhưng hình như vẫn có gì là lạ. Có lẽ, lạ vì không ngơ ngác như khi xưa sang học. Con đường phía trước không trải thảm cho tôi. Sẽ không ít khó khăn, nhưng tôi biết ở đó tôi có thể sống và làm việc mình mong muốn. Cảm giác tự do ngọt ngào.
Hà Nội mờ dần qua làn mây mỏng. Quê hương ơi, ta sẽ về như tìm bóng cây giữa con đường chang nắng. Sẽ về để thêm động lực ra đi. Về để hiểu ta Người Việt Nam và Quê hương ngàn đời vẫn một!

Thùy Dương